NĂM ẤT TỴ – HÌNH ẢNH CON RẮN TRONG KINH THÁNH

Phan Hoàng Đức 05/03/2025

Trong nền văn hoá và tín ngưỡng của các dân tộc, thú vật có vai trò quan trọng và mang ý nghĩa linh thiêng, kể cả các dân vùng Cận Đông và ngay cả trong Kinh Thánh. Trong bài học hỏi hôm nay, nhân dịp năm mới Ất Tỵ, do con rắn chủ trì, chúng ta cùng tìm hiểu về hình ảnh con rắn và cái nhìn của Kinh Thánh về sinh vật này.

I. Rắn theo quan niệm Cận Đông Cổ

Theo thần thoại Lưỡng Hà, nữ thần Ti-a-mát là nữ biển cả, mang hình hài một con rắn. Sử thi Ê-nu-ma Ê-lít nói về nữ thần Ti-a-mát là thuỷ quái, bị nam thần Mác-đúc đánh bại, nhưng rắn luôn là đồng minh trợ giúp Ti-a-mát trong các trận chiến chống lại các nam thần. Có lẽ sách Sáng thế ám chỉ đến Ti-a-mát khi nói đến vực thẳm đại dương và các loài thuỷ quái trong buổi đầu sáng tạo : “Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm” (St 1,2). “Vực thẳm” (Tơ-hôm) chỉ khối nước nguyên thuỷ hay đại dương nguyên thuỷ. Có thể Tơ-hôm xuất phát từ Ti-a-mat là biển cả được nhân cách hoá trong sử thi Ê-nu-ma Ê-lít (bài ca Ba-by-lon về công cuộc tạo thành).

Kinh Thánh Híp-ri nhiều lần nhắc đến loài thuỷ quái (Tan-nin) là một thụ tạo do Thiên Chúa tạo thành vào ngày thứ năm, có hình dạng như con rắn hoặc con rồng : “Thiên Chúa sáng tạo các thuỷ quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại” (St 1,21).

Trong nhiều nền văn hoá, rắn được coi là có vị trí trung tâm của vũ trụ : rắn nắm giữ vũ trụ bằng việc nằm trong biển cả, cuộn mình lại, ngậm đuôi trong miệng chứa đất cát. Rắn di chuyển sẽ làm cho nền đất cong oằn và rung lắc. Với hình ảnh này, rắn biểu tượng vừa cho ranh giới của trái đất vừa cho sự vĩnh cửu, và biểu tượng vừa cho sự bảo vệ chống lại sự hỗn mang vừa cho sự nguy hiểm luôn rình rập.

Trong thần thoại Gin-ga-mét, rắn thường nằm bên dưới hoặc quấn quanh gốc cây, tương phản với đại bàng đậu trên các cành cây. Cả rắn và đại bàng đều là biểu tượng cho sự thù hận truyền kiếp qua các trận chiến giữa điều thiện và điều ác, trật tự và hỗn mang, được coi là những thái cực của vũ trụ. Âm ty hay âm phủ cũng là nơi trú ngụ của rắn. Rắn là dấu chỉ sự dữ của địa ngục.

II. Rắn theo Kinh Thánh

Quan niệm của vùng Cận Đông Cổ về rắn với nghĩa cả tích cực lẫn tiêu cực đã đi vào Kinh Thánh.

1. Từ ngữ

Để diễn tả về rắn, Kinh Thánh sử dụng rất nhiều từ Híp-ri khác nhau, xin chỉ nêu lên một số từ tiêu biểu :

Nāḥāš (na-khát) dịch là rắn. Hẳn là chúng ta rất quen thuộc với hạn từ này vì đó chính là con rắn xảo quyệt đã cám dỗ bà E-và phạm tội trong St 3. Danh từ na-khát cũng xuất hiện trong câu chuyện dân Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê nơi hoang địa và vì thế họ bị rắn cắn như một sự trừng phạt (x. Ds 21,4-9). Na-khát còn xuất hiện nhiều lần như trong Is 14,19 ; 27,1 ; Gr 8,17 ; Cn 23,32 ; Tv 140,4.

śārāp̄ (xa-ráp) thường dịch là rắn như trong Ds 21,9 khi Chúa truyền cho ông Mô-sê : “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21,8 ; x. Is 14,29 ; 30,6).

Hai danh từ trên nhiều khi được ghép lại thành nāḥāš śārāp̄ (na-khát xa-ráp) và được dịch là rắn độc hay rắn lửa như trong trình thuật của sách Dân số vừa kể trên (x. Ds 21,6.7.9 ; Đnl 8,15).

Peṯen (pe-then), rắn hổ mang trong Đnl 32,33 ; Is 11,8 ; Tv 91,13. tse-pha’ (se-pha) trong Is 14,29 cũng dịch là rắn hổ mang.

Liwᵊyāṯān (lê-vi-a-than) dịch là Giao Long (G 3,8 ; Is 27,1), hay thuỷ quái (Tv 104,26) là một thứ rắn biển độc dữ.

Tannîn (tan-nin) dịch là thuỷ quái (St 1,21 ; Tv 148,7) hay mãng xà/rắn to (Đnl 32,33 ; Xh 7,12) hoặc thuồng luồng (Is 27,1 ; Tv 74,13). Tan-nin có khi được dùng chung với pe-then – rắn hổ mang (x. Đnl 32,33 ; Tv 91,13) hoặc với danh từ lê-vi-a-than – Giao Long, thuỷ quái (Is 27,1 ; G 3,8 ; Tv 74,13) ám chỉ các thế lực chống lại Thiên Chúa.

2. Rắn trong Cựu Ước

2.1. Rắn theo St 3

Rắn (na-khát) trong St 3 mang ý nghĩa quan trọng. Trong trình thuật sa ngã của nguyên tổ loài người, rắn chỉ là con vật, không mang tính thần thoại như một thứ thần, được dùng làm biểu tượng cho Xa-tan chống lại Thiên Chúa, gây ra sự mất hoà hợp của thụ tạo đối với Thiên Chúa.

Qua câu chuyện này, tác giả cho thấy : 1/ Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, là Đấng Sáng Tạo duy nhất và là Chúa duy nhất, còn tất cả các hữu thể khác đều là thụ tạo ; 2/ Rắn tượng trưng cho một sức mạnh thù nghịch khiến cho con người phản bội Thiên Chúa, và là hiện thân gây chết chóc cho con người trong mọi thời ; 3/ Lời nguyền rủa của Thiên Chúa trên con rắn (St 3,14tt) cho thấy bản chất của rắn bị thay đổi trong cách di chuyển và ăn uống (bò bằng bụng và ăn bụi đất), cũng mang ý nghĩa biểu tượng ; 4/ Con người nghe theo sự dữ chống lại Thiên Chúa, và hậu quả là phải đau khổ, phải chết, dễ ngả theo sự quy phục ma quỷ chống lại Thiên Chúa ; 5/ “Dòng dõi người phụ nữ” là Đức Ki-tô sẽ đến toàn thắng trên con rắn là Xa-tan, để cứu độ và hoà giải con người với Thiên Chúa.

2.2. Con rắn đồng trong Ds 21,4-9

54c56ad8-1028-433b-833c-3040b25f0310.webp

Rắn đúc bằng đồng thường thấy ở vùng Cận Đông Cổ. Rắn đồng cũng được chạm khắc trên các tấm bia có hình các thần, hoặc chỉ riêng hình con rắn, được dùng để thờ kính. Thế giới đa thần có những vị thần chuyên việc chữa bệnh, chẳng hạn như thần Át-cle-pi-ô của Hy-lạp với cây trượng có con rắn quấn quanh.

Trong trình thuật ở Ds 21,8-9, những ai bị rắn độc/rắn lửa (nāḥāš śārāp̄) cắn mà nhìn lên con rắn (śārāp̄) do ông Mô-sê đúc treo lên cây cột, thì được sống. Tuy nhiên, theo Kinh Thánh, việc chữa lành thực ra không phải do con rắn, mà từ chính Thiên Chúa vì Người thương xót dân Ít-ra-en. Việc dân nhìn lên con rắn là dấu chỉ cho thấy sự quy phục hoàn toàn và trung thành với Chúa.

2 V 18,4 nhắc đến con rắn được gọi là Nơ-khút-tan (gốc từ na-khát). Đó là con rắn đồng ông Mô-sê đã làm trong hoang địa mà sau này được dân Ít-ra-en tôn kính trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem như một thứ mê tín nên đã bị vua Khít-ki-gia đập tan.

3. Rắn theo Tân Ước

3.1. Trong các sách Tin Mừng

Rắn tượng trưng cho những gì nguy hiểm và xấu xa (Mt 7,10 ; Lc 3,7 ; 10,19). Khi thấy các kinh sư và người Pha-ri-sêu đến chịu phép rửa, thánh Gio-an Tẩy Giả hô lên : “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ?” (Mt 3,7). Đức Giê-su đã cảnh cáo những người Pha-ri-sêu nói Người dùng quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ rằng : “Loài rắn độc kia, xấu như các người, thì làm sao nói điều tốt được ?” (Mt 12,34). Người cũng nguyền rủa các người Pha-ri-sêu giả hình rằng : “Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia ! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục ?” (Mt 22,33).

Tuy nhiên, rắn cũng tượng trưng cho sự khôn khéo như lời Đức Giê-su khuyên các môn đệ trong sứ vụ loan báo Tin Mừng giữa thế gian : “Anh em phải khôn như con rắn” (Mt 10,16), bởi vì rắn có tài tránh nguy hiểm và luôn giữ cho cái đầu của nó khỏi bị đánh dập. Trong Mc 16,17-18, Đức Giê-su phục sinh bảo đảm với các môn đệ rằng những ai tin lời rao giảng của các ông thì thể cầm rắn trong tay mà không bị hại, ám chỉ rằng sự dữ đã bị vô hiệu hoá bởi Đấng Phục Sinh, trong Người các tín hữu làm chủ được các thế lực sự dữ (x. Mc 16,18 ; Lc 10,19).

Trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su nhắc lại hình ảnh con rắn ông Mô-sê đã treo trong hoang địa để tiên báo việc Người được giương cao trên thập giá : “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14-15).

3.2. Rắn trong các sách Tân Ước khác

Thánh Phao-lô nhắc lại chuyện con rắn trong St 3 để cảnh cáo các tín hữu Cô-rin-tô : “Như xưa con rắn đã dùng mưu chước mà lừa dối bà E-và thế nào, thì nay trí lòng anh em cũng dần dần đâm ra hư hỏng, mất sự đơn sơ đối với Đức Ki-tô như vậy” (2 Cr 11,3 ; x. 1 Tm 2,14). Thánh tông đồ cũng nhắn nhủ họ khi nhắc lại chuyện dân Ít-ra-en bị rắn cắn trong hoang địa xưa : “Ta đừng thử thách Chúa, như một số trong nhóm họ đã thử thách Người và đã bị rắn cắn chết” (1 Cr 10,9).

Tóm lại, rắn theo Tân Ước được trình bày dưới khía cạnh tiêu cực, biểu trưng cho thế lực chống lại Thiên Chúa và cám dỗ con người phản bội. Nhưng Thiên Chúa, qua Đức Giê-su, không bỏ mặc con người dưới quyền sự dữ, Người ra tay tiêu diệt sự dữ, giải thoát con người khỏi sự chết và được sống sự sống của Thiên Chúa.

Trong ngôn ngữ biểu tượng, tác giả sách Khải huyền nhiều lần nhắc đến con Mãng Xà – dragon megas (Kh 12,3.4.7 ; 20,2-3) cũng là Con Rắn – ophis (Kh 12,9.13.14.15), ám chỉ con rắn xưa trong St 3, là chính Xa-tan và các thế lực chống lại Thiên Chúa, chống lại Hội thánh và các tín hữu : “Có điềm lạ xuất hiện trên trời : đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng” (12,3). “Con Mãng Xà bị tống ra ngoài, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ” (12,9).

Kết luận

Rắn là thụ tạo được Chúa dựng nên, vốn tốt đẹp trong bản tính của nó. Nhưng với những đặc tính sống của loài rắn và theo văn hoá cũng như tôn giáo Ít-ra-en, hình ảnh con rắn xuất hiện trong Kinh Thánh hầu hết ám chỉ sự gian xảo, độc dữ, nguy hiểm, tượng trưng cho sức mạnh chống lại Thiên Chúa và làm hại con người.

Dù vậy, cũng có những sứ điệp hay bài học rút ra từ hình ảnh con rắn qua chính lời giảng của Đức Giê-su : Hình ảnh con rắn đồng treo trong hoang địa đã trở nên lời tiên trưng cho việc Đức Giê-su trên thập giá, để những ai nhìn lên Đấng chịu đóng đinh và tin vào Người thì được cứu độ. Đức Giê-su cũng dạy các môn đệ hãy học lấy sự khôn khéo của con rắn khi phải làm chứng cho Tin Mừng ở giữa thế gian đầy hiểm nguy này (x. Lc 16).

Nguồn: ktcgkpv.org (28/01/2025)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *