by Đỗ Phương Thảo
Vào sáng thứ ba, ngày 9/12/2008, lớp Điện ảnh K4 chúng tôi vinh dự được đón nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đến thỉnh giảng. Buổi học ngắn ngủi mà đầy thú vị, xoay quanh các vấn đề Văn học và Điện ảnh. Nhân dịp này, cũng xin được lạm bàn đôi chút về truyện ngắn “Thương nhớ đồng quê” của ông và bộ phim chuyển thể của ĐD Đặng Nhật Minh.
Truyện ngắn “Thương nhớ đồng quê” của Nguyễn Huy Thiệp được viết năm 1992, nằm trong chùm truyện viết về nông thôn của nhà văn (cùng với “Những bài học nông thôn”, “Chăn trâu cắt cỏ”). Truyện là một thế giới biểu tượng lay động đến phần tâm linh của mỗi người về một cánh đồng mẹ xưa cũ, về đồng quê – một thiên đường đã mất và về cái bản nguyên thuần khiết của chính mình.
Năm 1995, nhận lời mời của Đài truyền hình NHK Nhật Bản đặt làm một bộ phim về Việt Nam để chiếu tại Tokyo trong Liên hoan phim châu Á lần thứ nhất của NHK, đạo diễn Đặng Nhật Minh đã không phải mất nhiều thời giờ tìm kịch bản vì ông đã có sẵn trong tay kịch bản phim “Thương nhớ đồng quê” dựa theo truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: “Thoạt tiên tôi thấy ở truyện ngắn này một không gian điện ảnh đầy gợi cảm (…). Dưới con mắt tôi đó là truyện ngắn giàu chất điện ảnh nhất của Nguyễn Huy Thiệp” (Đặng Nhật Minh hạnh phúc với những ngày thực hiện “Thương nhớ đồng quê”, Nguồn: www.vnn.vn).
Khi viết kịch bản ông đã bổ sung thêm mối quan hệ giữa ba nhân vật Quyên, Nhâm, Ngữ để tạo ra cái lõi kịch tính cần thiết. Đồng thời, theo gợi ý của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, ông cũng kết hợp thêm truyện ngắn “Những bài học nông thôn” vào bộ phim. Nhưng, dù là “phỏng tác”, “dựa theo” hay chỉ lấy tác phẩm văn học là nguồn chất liệu gợi hứng, bộ phim chuyển thể cũng không thể bỏ qua những hình ảnh biểu trưng chính, chủ đạo trong tác phẩm văn học.
Trong số các hình ảnh biểu trưng, Đồng quê (cánh đồng) đã trở thành biểu tượng chủ đạo trong cả tác phẩm văn học và bộ phim này. Trong cách cảm nhận của người Việt, cánh đồng gắn liền và là biểu tượng của quê hương. Nó còn gợi ra không gian sống hoang dã, nơi con người tự nhiên được sống như chính nó, thuận theo bản năng, hài hoà với vũ trụ. Cánh đồng trở thành cánh đồng mẹ, nơi chốn nương náu và có khả năng ôm ấp, lưu giữ những hoài niệm bất tận, những cái đã mất của con người: “Thương nhớ đồng quê” là một niềm hoài niệm, một nỗi đau, niềm thương nhớ xót xa về một thế giới đã mất và con người tìm lại như thể tìm lại cái bản nguyên của chính mình. Điều này chính là sự gặp gỡ trong nhận thức về biểu tượng Cánh đồng của Nguyễn Huy Thiệp và Đặng Nhật Minh.
Có thể thấy trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, biểu tượng Đồng quê đã vận động qua nhiều biến thể, chủ yếu theo hai mối quan hệ:
1. Phân hoá: biểu tượng trung tâm được triển khai thành một hệ thống các yếu tố cùng cấp độ nhưng có những hướng nghĩa khác nhau: “đồng quê”, “làng quê” (xuất hiện trong nhan đề, trong lời của một người thành phố là Quyên, trong lời giới thiệu về nhân thân của Nhâm: “Tôi sinh ra ở làng quê…”); “cánh đồng”, “cánh đồng màu”, “cánh đồng lòng”, “cánh đồng người”, “cánh đồng hoang”… Cánh đồng xuất hiện lặp lại như một ám gợi, lúc đầu trong sự giới thiệu và mô tả trực tiếp của nhân vật Tôi, trong những câu chuyện về giá nông phẩm, về sự nhàn nhã hay cay đắng trong vun trồng… Càng về sau, nó càng đi dần từ thế giới thực vào thế giới tâm tưởng của nhân vật trong những ý nghĩ đã trào lên thành thơ của Tôi, để rồi cuối cùng trở thành một tượng trưng trong kết thúc bi kịch: “Đám ma em gái trên đồng”.
2. Chi tiết hoá: cánh đồng bao chứa hàng loạt các yếu tố thuộc cấp độ nhỏ hơn như: Lúa, mùi lúa; Đất, bùn non; Bờ ruộng, đường mương; Rơm rạ, chân rạ; Ếch, côn trùng, châu chấu, ổ dế; Tiếng sáo diều; Giá thóc, giá nông phẩm… Đó chính là một thế giới nông thôn giản dị, thuận theo tự nhiên mà mỗi sự vật lại có đời sống riêng của nó. Nét đặc biệt trong ngôn ngữ Nguyễn Huy Thiệp là sự kết hợp các khái niệm với các tín hiệu thuộc về đồng ruộng như một cách “đồng đất hoá” các khái niệm, các cảm xúc khiến cho bản thân những biến thể này cũng có tiềm năng chuyển hoá thành những biểu tượng, như: “cánh đồng hoang của mê muội và cái ác nhởn nhơ”, “cánh đồng lòng”, “gặt một lượm sống”, “cánh đồng người”, “bờ ngang bờ dọc lầm lạc”, “tấm vải liệm sực mùi đồng nội”… Tất cả các biến thể từ vựng đó làm nên một hệ biểu tượng về đồng quê rất dồi dào cả về ý nghĩa và cách thức thể hiện.
Chuyển hoá vào ngôn ngữ điện ảnh, biểu tượng Đồng quê về cơ bản vẫn sử dụng những biến thể chính của tác phẩm văn học nhưng thông qua chất liệu hình ảnh. Cánh đồng lúa chín với sự trợ giúp của máy quay khi thì hiện lên toàn cảnh rộng lớn: cánh đồng, làng xóm, núi Ba Vì mờ xa… trong khuôn hình tĩnh, máy quay cố định; khi thì được quay di chuyển, trôi lướt theo cái nhìn và ý nghĩ miên man của một chàng trai đang đạp xe bạt gió trên đường làng; khi làm nền cho nhân vật trong một vài trung cảnh; khi lại cận cảnh trực tiếp từng cây lúa đổ rạp theo chiều gió, từng gánh lúa, từng hạt thóc… dưới bàn tay con người, đặc biệt là ba cận cảnh rất đặc sắc: Cận cảnh đôi ếch ở cánh đồng đêm mưa, cận cảnh ổ dế trên cánh đồng lạc và cận cảnh tổ chim non trên cánh đồng mía.
Có lẽ chính âm nhạc và hình ảnh trong phim bằng sự cụ thể của mình đã làm cho người xem hiểu nhiều hơn về những nhọc nhằn, những số phận hắt hiu đầy mặt đất qua những cảnh người nông dân gặt lúa, gánh lúa, đập thóc, và cả những bước chân trên sân rẽ thóc rối bời… Đó chính là sự hữu hình hoá của những “mùi vị nghèo nàn trên cánh đồng quê tôi”. Sự kết hợp hài hoà giữa toàn cảnh và cận cảnh đã mang lại cái nhìn đa chiều về cánh đồng, cho người xem vừa thấy được sự mênh mông của cảnh vừa cảm nhận được chiều sâu trong từng khuôn hình. Tuy nhiên, đôi khi hình ảnh cũng không đủ sức lột tả được những ý nghĩa biểu trưng, phim đã phải sử dụng đến sự trợ giúp của ngôn từ thông qua những lời dẫn chuyện của Nhâm hoặc cảnh Minh đọc bài thơ “Cánh đồng quê tôi”…
Như phần lớn các biểu tượng khác, biểu tượng cánh đồng cũng lưỡng tính, bao gồm “phần đêm và phần ngày” theo cách nói của J. Chevalier. Cả truyện ngắn và phim đều làm nổi bật được hai mặt ý nghĩa của biểu tượng này:
* Cánh đồng – không gian sống tự nhiên, chốn bình yên nương náu:
Trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, nét ý nghĩa này ngay từ đầu đã được khẳng định trong lời giới thiệu của Nhâm như một hàm ý xác nhận về nhân thân, về gốc gác: “Tôi là Nhâm. Tôi sinh ra ở làng quê, lớn lên ở làng quê”, sau đó đã trào lên thành thơ như một sự ám gợi, được khơi gọi về từ một câu hỏi hồn nhiên“Cánh đồng bắt đầu từ đâu?”: “Cánh đồng bắt đầu từ nơi rất sâu trong lòng tôi – Trong máu thịt tôi đã có cánh đồng – … Tôi làm sao quên được nơi mẹ sinh ra tôi – Mẹ đã buộc cuống rốn cho tôi bằng sợi chỉ – Tắm gội cho tôi bằng nước ao đầm trước…”.
Từ cánh đồng máu thịt của quê hương đã được trừu tượng hoá thành “cánh đồng lòng”, “cánh đồng người” – không gian của sự hoang dã, tự nhiên, của những bản năng nguyên sơ của con người, nơi vang vọng những tiếng hú gọi “tru lên như sói hoang”, “những lời rên rỉ côn trùng”, “tiếng sáo mục đồng nhỏ nhoi, phiêu bồng”…
Trong phim, ý nghĩa này được thể hiện bàng bạc, từ đầu đến cuối luôn luôn hiện lên hình ảnh cánh đồng và làng quê, nơi các nhân vật sinh ra và lớn lên, ra đi và trở lại. Nhưng thể hiện được rõ nét nhất là cảnh Nhâm đi bắt ếch đêm mưa, giao hoà với hồn quê và vũ trụ và cảnh Minh đọc bài thơ “Cánh đồng quê tôi”. Bên cạnh đó, ý nghĩa này cũng được thể hiện qua lời của các nhân vật: Quyên:
“Những ngày sống nơi đất khách quê người, chị không biết mình là ai, mình ở đâu tới nhưng bây giờ chị hiểu rằng, dù đi đâu, ở đâu, chị cũng là một phần của mảnh đất này”; Lá thư Nhâm gửi lại làng quê: “Tôi tên là Nhâm. Tôi thương nhớ làng quê của tôi. Và tôi sẽ trở về…”.
* Cánh đồng – không gian trú ngụ của “bóng tối”:
Cánh đồng còn là không gian trú ngụ của bóng tối với bao điều khuất lấp đáng buồn, của cuộc sống đói nghèo lam lũ, của tội ác nhởn nhơ, của mê muội… Nhân vật Tôi trong những suy nghĩ thành thơ của mình đã không nguôi trăn trở về: “nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất – sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất – những số phận hắt hiu đầy mặt đất”, “mùi vị nghèo nàn trên cánh đồng quê”… Ý nghĩa “bóng tối” của cánh đồng được Nhâm cảm nhận rõ nét trong đêm mưa ngoài ruộng và trở thành biểu tượng “cánh đồng hoang của mê muội và cái ác nhởn nhơ” trong lời thơ.
Gắn với nó là hàng loạt những chi tiết đầy ám ảnh: Sự vô danh của những con người của đồng quê, có tên nhưng không có thân phận, đi đâu cũng bị nhìn như kẻ làm thuê (“đồng quê tôi vô danh, nơi tôi đứng đây vô danh”; Nhâm luôn xác định “Tôi là Nhâm” nhưng Quyên không bao giờ nhớ tên, chỉ gọi “Anh gì ơi”); Chi tiết Nhâm đi bắt ếch về, qua nhà thím Nhung biết được quan hệ vụng trộm của thím Nhung và chú Phụng; Cánh đồng chôn giấu nỗi căm ghét vì một bội phản không được nói rõ ràng ở lời thơ 3, nơi có những “bờ ngang bờ dọc lầm lạc” và chứng kiến không ít những lần “phá sản”, “những vết sẹo” Tôi mang trên người…
Như vậy, rõ ràng Nguyễn Huy Thiệp đã có một cái nhìn không hề đơn giản về đồng quê: Nhìn ở phần sáng, cánh đồng là nơi nuôi dưỡng cái tự nhiên, sự hoà hợp, tính Thiện và truyện ngắn như một nỗi “thương nhớ đồng quê”, một sự kêu gọi trở về. Nhưng nhìn ở phần tối, đồng quê cũng là nơi nuôi dưỡng cái ác, cái xấu, cái tăm tối, vô nghĩa. Kết thúc truyện ngắn là cảm giác “vô nghĩa” của Tôi, vô nghĩa vì cái có nghĩa đã mất, vô nghĩa vì không còn tương lai, không cần biết mai nắng hay mưa, chỉ còn dai dẳng nỗi nhớ thương. Tâm trạng hoài nhớ này trở thành phổ biến, không chỉ với tôi mà với cả chị Ngữ, đến nỗi mà ngay khi con người đi trên mảnh đất của làng vẫn hình dung về làng như từ một không gian khác, và luôn hướng đến một chân trời nào đó nơi có vòng cung Đông Sơn…
Bộ phim cũng thể hiện được cả mặt phải lẫn mặt trái của làng quê Việt Nam ở giai đoạn chuyển mình. Cuộc sống nông thôn chứa đựng biết bao nghịch lí. Thân phận của những con người ở nông thôn – những người nuôi sống toàn xã hội, lại thật nhỏ bé, lặng lẽ, vất vả, thiệt thòi. Những người đàn ông lần lượt bỏ ra thành phố hoặc lang bạt tứ xứ kiếm sống. Những người phụ nữ sống trong cô đơn, khắc khoải chờ chồng không hi vọng. Kết thúc phim có phần còn bi kịch hơn nguyên tác, chẳng có cánh cửa nào mở ra cho cuộc sống đầy nhọc nhằn này. Tai nạn oan nghiệt, đám ma trinh nữ thương tâm. Quyên sinh ra ở làng quê, cô vẫn muốn trở về đây chứ? Vì sao cô nói “không biết”? Ngữ trở về sau chuyến tìm chồng trong vô vọng để rồi lại tiếp tục những chuỗi ngày âm thầm, vò võ. Nhâm ra đi trong một hoàn cảnh không thể tồi tệ hơn: mẹ đau, em mất, chị dâu cô đơn tủi hận, gian nhà trống hoác trống hơ. Cuộc sống làng quê Nhâm luôn mong nhớ rồi sẽ tiếp tục ra sao? Ta gặp lại sự bế tắc của “Cánh đồng bất tận”. Nông thôn muôn đời vẫn thế, mãi mãi nằm sau luỹ tre làng, “bao tháng ngày trôi đi, bao kiếp người trôi đi, sự khéo léo của ngôn từ nào kể lại được…”.
Biểu tượng Đồng quê trong truyện ngắn và phim đều được dựng lên trong quan hệ đối lập với Thành thị (Thành phố). Ở truyện ngắn, thành phố hiện hình cụ thể qua những tín hiệu:
Tín hiệu nhân vật – Quyên, cô gái thị thành “muốn có ấn tượng đúng về đồng quê” nhưng lại chỉ có cái nhìn của người ngoài cuộc, quen sống ở thị thành. Cô chỉ có thể hỏi về giá cả nông sản, chỉ nhìn thấy sự nhàn nhã của người dân quê. Cô không thuộc về thế giới đó nên tất nhiên cô phải trở lại thành phố mà không một chút lưu luyến với đồng quê.
Tín hiệu hình ảnh vật chất: bức điện của Quyên – chú Phụng: “Sao lại bưu cục SNN? Thế là nghĩa lí gì? Bọn thành phố nhiều mưu kế lắm.”; ga chiều huyện lỵ vắng vẻ bị tiếng còi tàu hăm doạ, chói óc đến từ thành phố làm cho rối rít, cuống cuồng; đặc biệt là chiếc xe tải chở cột điện gây ra cái chết thảm thương của hai em Minh, Mị. Đó là hình ảnh của thế giới văn minh đang chiếm lĩnh thế giới tự nhiên của đồng quê. Trong kết hợp này, cánh đồng lại mang thêm nét nghĩa mới: nó như một thân thể yếu đuối có thể ngẫu nhiên bị cái cơ thể thành thị xe tải chèn chết. Cánh đồng là cuộc sống tự nhiên bị tiêu diệt ở những giai đoạn giao tranh. Vì thế mà cánh đồng trở thành “thương nhớ”.
Bộ phim đã thổi vào mối quan hệ này một sự phát triển kịch tính, thông qua tuyến nhân vật đối lập: Ngữ và Quyên – hai người đàn bà, một đại diện cho “truyền thống”, một đại diện cho “hiện đại”. Ngữ là hiện thân của người đàn bà nông thôn truyền thống. Cái nhìn của chị là của người nằm trong lòng cuộc sống khó khăn, đơn điệu, bức bối của làng quê. Sự vất vả, cô đơn, buồn bã và nỗi khát khao hạnh phúc khiến chị luôn sống trong sự giằng co căng thẳng giữa sự chịu đựng và những thôi thúc muốn phá tung mọi bó buộc của không gian chật hẹp ở làng quê.
Quyên lại là một luồng gió thổi về làng từ thế giới hiện đại. Cô có cái nhìn gần như ngược chiều với Ngữ về làng quê – cái nhìn từ ngoài vào, vừa xa lạ vừa gắn bó, vừa ngỡ ngàng vừa cảm thông. Nhưng những con người xa quê như cô dù ở đâu cũng có nỗi khắc khoải nhớ quê, hướng về quê mẹ. Sau có mấy ngày ở quê mà cô Quyên trong bộ đồ trắng lúc mới xuống tàu ở đầu phim và cô Quyên trong sắc áo tang đen lúc chuẩn bị lên tàu ra đi ở cuối phim là hai con người khác hẳn, cả bề ngoài lẫn tâm trạng bên trong. Đây là điểm khác biệt cơ bản của phim và truyện ngắn khi xây dựng hình ảnh Quyên – cô gái thị thành.
Bộ phim đem đến một thông điệp mới: đồng quê và thành phố, truyền thống và hiện đại có những nét tương phản, ngược chiều nhau nhưng cũng có nhiều sự tương đồng, gần gũi nhau. Trong cảnh đám tang, hai người phụ nữ này và cả làng dường như xích lại gần nhau trong nỗi đau chung. Họ còn có một điểm chung là suốt đời khát khao và đi tìm hạnh phúc nhưng không đạt được.
Tìm hiểu cụ thể việc sử dụng biểu tượng Đồng quê (cánh đồng) trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và bộ phim chuyển thể của Đặng Nhật Minh, có thể thấy, hầu hết các biểu tượng chủ đạo trong tác phẩm văn học đều được điện ảnh tái sử dụng, kế thừa ở những nét nghĩa chính. Tuy vậy, văn học và điện ảnh vẫn có sự khác nhau trên phương diện các biến thể, các cấp độ biểu hiện ý nghĩa và các mối quan hệ kết hợp của biểu tượng. Điều này làm nên nét sáng tạo, đặc trưng riêng của văn học và điện ảnh ngay cả khi khai thác cùng một biểu tượng.
Nguồn ảnh: http://www.vietimes.com.vn/Library/Images/32/2007/12/71216.jpg
~ by Đỗ Phương Thảo on December 25, 2008.
Posted in Critical Writing, Recent Posts Tags: dang nhat minh, literary adaptation, Nguyen Huy Thiep, NHK, phim viet nam, Vietnamese Film