Những trận đánh Khu Cháy

Đứng bên tượng đài Khu Cháy anh hùng, tôi bồi hồi với những ký ức sôi nổi của một chiến binh trực bên khu Bảo tàng Khu Cháy (xã Đồng Tân, Ứng Hòa, Hà Nội). Cảm xúc trong tôi bỗng trào dâng khi giai điệu bài hát "Hà Tây quê lụa" một thời vang lên trong lời ca: "Sữa trắng Ba Vì, thóc vàng khu Cháy. Hà Tây cửa ngõ thủ đô". Đúng vậy, đây chính là cửa ngõ thủ đô. Hình ảnh Khu Cháy ngùn ngụt trong khói bom cùng với cuộc chiến đấu đầy khốc liệt của quân và dân ta mỗi khi giặc Pháp tràn về. ATK phía nam này cách trung tâm Hà Nội chừng 50 cây số.

Bạn đang xem: Trận đánh khu cháy ứng hòa

Tượng đài Khu Cháy (Ứng Hòa, Hà Nội)

Khu Cháy bám đường số 1A và đường số 428. Đây được coi là vùng tự do mà giặc Pháp không đủ lực lượng vươn tới. Trong đó xã Tào Khê và Trầm Lộng là những cơ sở trung tâm. Vùng diện tích ATK còn được mở rộng sát với huyện Kim Bảng (Hà Nam). Đặc biệt ngôi nhà phía sau chùa Tào Khê là nơi đồng chí Hoàng Quốc Việt, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ làm việc. Trong chùa có hầm bí mật để các đồng chí lãnh đạo rút xuống mỗi khi có biến. Sát với các làng bên kia sông thuộc Phú Xuyên hay Thường Tín là vùng Tề (do giặc Pháp chiếm). Vùng giáp ranh này thường bị giặc Pháp tổ chức càn quét để tiêu diệt lực lượng ta. Hàng ngàn ngôi nhà và lũy tre tan hoang. Mỗi lần chúng đổ bộ đến đây đều gặp sự chống trả quyết liệt của quân và dân các xã quanh vùng bảo vệ ATK.

Sau đó kẻ địch ồ ạt đánh thọc sâu từ nhiều phía nhưng không sao thực hiện được mục đích tiêu diệt gọn lực lượng kháng chiến và thiêu rụi xóm làng. Chúng luôn bị động bởi cách đánh đột kích bất ngờ của quân và dân Khu Cháy. Quân và dân ta tìm cách cô lập lực lượng chúng ra nhiều phía để tấn công. Giặc tổ chức 11 lần tấn công bắn phá nhưng đều bị đánh bật trở lại. Mặc cho lực lượng địch huy động cả máy bay, xe tăng và pháo cao xạ nhưng quân và dân xã Đông Lỗ đã chiến đấu ngoan cường.

Học sinh, thiếu nhi thắp hương tưởng niệm anh hùng liệt sĩ Khu Cháy

Hai bên giành giật nhau từng xóm ngõ. Cuối cùng giặc phải bỏ chạy vì bị thiệt hại và chết bỏ xác trên những cánh đồng. Người hướng dẫn cho biết cho dù nhiều xã bị tàn phá tiêu điều nhưng cuộc chiến đấu của quân dân Khu Cháy đã đánh tan âm mưu kẻ địch muốn chiếm lại vùng tự do. Cuộc chiến đấu dai dẳng kéo dài 15 ngày liên tiếp. Giặc Pháp không ngờ sức mạnh kiên cường của quân dân Khu Cháy. Với 33 cuộc tấn công càn quét không thành, giặc Pháp đã bị tiêu diệt 1.100 tên cùng với 32 xe cơ giới. Trong đó có hơn 100 tên bị bắt sống.

Sau chiến công này, quân và dân Khu Cháy được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen. Những lời thư khen của Bác Hồ đã khích lệ tinh thần kháng chiến của quân và dân ATK ngày một lên cao. Mặc dù sau cuộc tàn sát khốc liệt đó, nhiều người dân đã phải đi tản cư lên vùng tự do ở Hòa Bình. Nhưng các chiến sĩ dân quân du kích và bộ đội địa phương vẫn bám trụ bảo vệ chiến khu.

Đồng thời hàng trăm thanh niên thiếu nữ đã xung phong ở lại chiến đấu không hề nao núng. Cũng từ đây, quân và dân Khu Cháy đã ngày một lớn mạnh và tổ chức tấn công đồn bốt giặc từ phía xa. Không ít lần đã đánh thẳng vào trại tập trung Đông Quan do Mỹ giúp Pháp xây dựng thí điểm phía bắc Khu Cháy (đầu năm 1953). Phong trào kháng chiến ngày một lớn mạnh kéo dài cho đến chiến dịch Điên Biên Phủ.

Theo tổng kết, quân và dân Khu Cháy đã đánh 615 trận, tiêu diệt tới 2.687 tên địch. Đứng trên mảnh đất còn nóng bỏng những ký ức chiến tranh, chúng tôi ai nấy xao xuyến trước cánh đồng quê thẳng cánh cò bay. Ngôi chùa Viên Đình cổ kính vẫn còn đó trầm mặc với những câu chuyện cổ tích về hai cây duối ngàn năm. Điều bất ngờ khi chúng tôi biết ở nơi đây nhiều văn nghệ sĩ kháng chiến đã tới và làm việc ở Khu Cháy. Họ để lại những tác phẩm gắn bó với lịch sử cách mạng thủ đô.

Những bản nhạc và phiên chợ trời

Khi đi qua cầu Cống Thần (làng Thần, xã Minh Đức) đoàn chúng tôi dừng chân với những câu chuyện thú vị của Khu Cháy xưa. Cầu được xây dựng tại ngã ba sông. Đây là phụ lưu sông Đáy cắt sông Châu Giang tiếp nối dòng sông Nhuệ. Nơi đây đã hình thành một cái chợ thuộc vùng tự do của "Thủ đô kháng chiến". Chợ phát triển dọc hai bên đường kéo dài mấy cây số tới từ chợ Đại (Thịnh Đại-Kim Bảng) tới Cống Thần. Chính vì thế người ta gọi tên là Chợ Đại-Cống Thần (hoặc còn gọi là chợ Kênh đào). Điều thú vị chợ này còn là nơi tập họp các người buôn bán của cả hai vùng "Tự do" và "Tề".

Ngay những người Pháp có đồ cũ cũng cho gửi tới bán. Chợ họp từ xế chiều cho tới khuya để tránh bị giặc Pháp bắn phá bất ngờ vào các buổi sáng. Chợ kéo dài thành dãy với những quán hàng được dựng tạm. Nhất là khi đêm đến, hai bờ sông lập lòe ánh sáng của nến và đèn dầu. Khi đó Chợ Đại-Cống Thần càng đông. Các thuyền bè đậu bến ngủ lại bán nốt hàng cho tới sáng hôm sau. Cảnh chợ lung linh, tấp nập như vào hội. Ở đây tạm thời đã xóa đi không khí chiến tranh và tàn sát mặc dù thi thoảng có tiếng pháo dội từ xa vọng về. Tiện đường thủy trên các tuyến sông Đáy người phía bắc cũng chở hàng tới bán. Hoặc những thương hồ phía nam đi từ Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh cũng lần mò theo sông Châu Giang tới tìm mua. Chợ vùng tự do không thiếu thứ gì.

Theo như nghệ nhân Đào Văn Soạn người làng Đào Xá (Đông Lỗ) cho biết nhiều anh em văn nghệ sĩ theo kháng chiến đã đi qua đây. Có nhiều người tản cư vào khu chợ Đại và vùng tự do Khu Cháy. Trong đó còn có nhóm ca nhạc gia đình nhạc sĩ Ngọc Bích mở quán cà phê Thủy Tiên. Hay quán cà phê Lan cũng rất đông khách. Không ít văn nghệ sĩ đã về trụ ở đây khá lâu như thi sĩ Đinh Hùng, Huyền Kiêu hay Lê Đại Thanh… Các họa sĩ hoạt động ở Việt Bắc đôi khi cũng về đây đi thực tế.

Một góc chợ Đại

Trong danh sách họa sĩ đã từng về đây vẽ tranh cổ động và tuyên truyền, có những cái tên quen thuộc như Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, hoặc Phạm Văn Đôn hay Quang Phòng. Thậm chí họ đã về tận chợ Đại mở triển lãm để trưng bày và tuyên truyền cho công cuộc kháng chiến chống Pháp. Chợ có những sạp bán tạp hóa to không kém gì trong phố. Không khí kháng chiến thủ đô cùng các phiên chợ trên sông Đáy tạo niềm hưng phấn cho những cảm xúc sáng tạo của văn nghệ sĩ.

Trong hồi ức của nhiều anh em văn nghệ sĩ theo kháng chiến đều có những kỷ niệm với Chợ Đại-Cống Thần. Khi có dịp nghỉ phép hay đi công cán họ thường ghé về nghỉ tại khu chợ trời này. Dân tiểu thương ở chợ Đồng Xuân đi sơ tán cũng về đây mở quán. Thậm chí đến cả những tên mật thám của thực dân Pháp cũng được cử về chợ để thăm dò tin tức từ ATK. Quân đội ta cũng có những nhóm chiến sĩ hoạt động tình báo hoặc các tổ đội biệt động trà trộn trong phiên chợ để theo dõi gián điệp và nghe ngóng chuyện của vùng tề. Đụng độ đã xảy ra nhiều lần.

Nhưng bao giờ những tên mật thám đội lốt dân buôn cũng phải lủi vào bãi lau hoang rồi chuồn mất. Nghệ nhân Đào Văn Soạn rất nhớ đến cái tên nhạc sĩ Văn Cao. Ông kể chính từ ngôi làng Đào Xá, nơi cả làng làm đàn Nguyệt và đàn Tam thập lục, nhạc sĩ Văn Cao đã viết bản nhạc "Tiến về thủ đô". Bản nhạc đã được tấu lên tại sân chùa Viên Đào. Bài hát đã được nhạc sĩ Văn Cao viết theo lời yêu cầu của cấp trên từ năm 1949. Đó là một sự kiện được dự báo trước về ngày chiến thắng của quân và dân ta khi mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Sẽ có môt ngày bộ đội ta trở về giải phóng thủ đô. Bài hát đã sớm được truyền đi trong chiến khu tạo nên ngọn lửa tinh thần cho cuộc kháng chiến chống Pháp vĩ đại.

Và "Đôi mắt người Sơn Tây"

Chợ Đại-Cống Thần được coi là chợ chiều của vùng tự do. Nó được tạo nên một cách tự nhiên từ năm 1947 và thu hút nhiều nghệ sĩ từ chiến khu Việt Bắc và Liên khu III và IV hội tụ. Có người còn coi chợ như là nơi dưỡng sức khi nghỉ phép đều tạt qua. Họ rất thích ở lại mấy hôm để đi chợ đêm. Không ít người đã về ở một thời gian dài vì được an toàn và tham gia kháng chiến. Đáng chú ý văn nghệ sĩ rất hay tạt vào quán Thăng Long để ca hát và trao đổi sáng tác. Bởi chủ nhân là ông Phạm Đình Phụng rất yêu quý văn nghệ sĩ và đánh đàn nguyệt rất hay. Ông chính là thân phụ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương sau này. Đồng thời hai con gái của ông cũng là những ca sĩ nổi danh Thái Hằng và Thái Thanh.

Nghệ nhân Đào Văn Soạn còn nhớ trên chi lưu sông Đáy này nhạc sĩ Phạm Duy đã sáng tác tình khúc "Tiếng đàn tôi" (1948) tặng cho người yêu của mình. Đó là cô Hiếu xinh đẹp sinh sống bên Chợ Đại-Cống Thần. Hình ảnh nhạc sĩ Phạm Duy vừa đàn vừa hát trên sông lang thang trên một con thuyền nhỏ vẫn lưu dấu trong ký ức nghệ nhân. Ông còn nhớ câu hát mà nhạc sĩ Phạm Duy đã viết: "Mênh mông là ơi/ Thuyền về tới bến Mê rồi/ Khoan khoan hò ơi/ Dặt dìu trong tiếng đàn tôi…"

Nhưng có lẽ điều thú vị hơn cả khi nghệ nhân Đào Văn Soạn còn kể tới hai bài thơ của cố thi sĩ Quang Dũng. Đó là "Đôi bờ" và "Đôi mắt người Sơn Tây" cũng được bắt nguồn từ Chợ Đại-Cống Thần này. Trong một chuyến đi phép, thi sĩ Quang Dũng đã rẽ về Chợ Đại-Cống Thần để tìm một nhan sắc mà ông đã từng xao xuyến nhớ thương. Theo chuyện kể, đó là một thiếu nữ người Sơn Tây có đôi mắt to đượm buồn. Nàng theo gia đình tản cư về đây mở quán bán hàng cùng mẹ ở bên sông chợ Đại. Rung động trước sắc đẹp dịu dàng, nhà thơ đã gửi gắm tình cảm qua hai bài thơ "Đôi mắt người Sơn Tây" và "Đôi bờ".

Quang Dũng sáng tác những thi phẩm này vào năm 1949. Trước đó ông đã có bài thơ nổi tiếng "Tây Tiến" (1948- viết ở Phù Lưu Chanh-Hà Nam). Lời thơ thân thương đã gieo vào lòng người với nỗi tình khôn nguôi: "Thương nhớ ơ hò thương nhớ ai/ Sông kia từng lớp lớp mưa dài/ Mắt kia em có sầu cô quạnh/ Khi gió heo về một sớm mai" (Đôi bờ).

Sau này bài thơ "Đôi mắt người Sơn Tây" càng được nhiều người biết đến khi được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc. Bài hát luôn được các ca sĩ nổi tiếng trình diễn. Những lời thơ làm lay động tâm hồn bao thế hệ trong hơn 70 năm qua. Người yêu thơ ông luôn cất tiếng theo giai điệu mượt mà sâu lắng với hồn thơ trầm ấm thiết tha: "Vừng trán em vương trời quê hương/ Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương/ Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm/ Em có bao giờ em nhớ thương".

Nay chợ kênh đào đã lui vào dĩ vãng. Nhưng chợ Đại vẫn còn đó như dấu tích ẩn chứa những ký ức sôi động. Nhìn từ phía xa, dòng sông Đáy và Châu Giang trong xanh vẫn cuồn cuộn trôi về phương Nam. Đó cũng là dòng thời gian luôn ẩn giấu một thời kháng chiến oanh liệt cùng với quân và dân Khu Cháy anh hùng.

HNP - Về Ứng Hòa vào những ngày Thủ đô tưng bừng khí thế kỷ niệm 57 năm hoàn toàn giải phóng, lòng chúng tôi ấm lại khi nghe những con người của khu Cháy anh Hùng say sưa kể về quá khứ, hiện tại. Có thể trí nhớ không còn nguyên vẹn, nhưng họ vẫn thuộc làu những trang sử đấu tranh oanh liệt chống quân xâm lược và công cuộc xây dựng quê hương cách mạng thay đổi từng ngày.


*

Trong hồi tưởng của mình, cụ Phạm Văn Dong, thôn Trầm Lộng, xã Trầm Lộng (82 tuổi) từng đứng trong hàng ngũ Thanh niên cứu quốc thời kỳ những năm 41 không quên được những năm tháng nông dân, phụ nữ, phụ lão và thiếu nhi nơi đây củng cố lực lượng tạo sức mạnh đoàn kết, biến vùng đồng trũng sình lầy tăm tối về văn hóa dưới thời thực dân phong kiến thành căn cứ cách mạng. Những hình ảnh về chùa Chòng, xưởng in, xưởng dệt, xóm Rồng, miếu Cụ, miếu Đông nơi nuôi giấu, bảo vệ cán bộ, in ấn tài liệu, hội họp, sinh hoạt của xứ ủy Bắc Kỳ những năm 1939-1945 vạch kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền cứ dội về trong tâm trí những người chúng tôi gặp. Cụ Dong kể, tinh thần đánh Thực dân Pháp, đuổi Nhật lên cao, quần chúng nhân dân khu Cháy rất phấn khởi. Tại xã Trầm Lộng, cuối năm 1941, sau khi thành lập, Mặt trận Việt Minh xã đã kết nạp gây dựng các phong trào "Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc và nhi đồng cứu vong" làm nhiệm vụ đẩy mạnh công tác tuyên truyền, ban đêm thì tập võ chuẩn bị lực lượng tiến tới vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Phong trào ngày càng lên nhanh, ngày ngày các bà, các chị trong đoàn thể phụ nữ cứu quốc được giao nhiệm vụ thuyết phục, kiên quyết ngăn cản dân phu khi họ đào đất. Thanh niên, trung niên chuẩn bị gậy gộc khi có hiệu lệnh kháng chiến. Càng đấu tranh, khí thế cách mạng ở Trầm Lộng càng sôi động, lan tỏa dần ra cả 11 xã khu Cháy. Cùng với nhiệm vụ nuôi giấu, bảo vệ cán bộ, bảo vệ phong trào, các lực lượng tự vệ, lực lượng bán vũ trang khu Cháy hăng hái tham gia bảo vệ xóm làng. Sau khi giành chính quyền, lực lượng Thanh niên cứu quốc khu Cháy tiếp tục nhiệm vụ tuyên truyền và thực hiện nghĩa vụ cao cả tiếp quản giải phóng Thủ đô. Trong số hơn chục người con của Trầm Lộng, trùng trùng, lớp lớp cùng đoàn quân tiến về giải phóng Thủ đô, có người đã anh dũng hy sinh, người thì về với tổ tiên, nhưng thực sự họ là những người con trung dũng của mảnh đất khu Cháy anh hùng.

Không chỉ làm nên một khu Cháy ghi vào những trang sử vàng chói lọi, người dân nơi đây còn giỏi trong lao động sản xuất. Ngắm những thửa ruộng năm xưa “đồng trắng, nước trong”, “chiêm khê, mùa thối”, nay đã thay thế bằng ô thửa lớn, vuông vắn, lúa vụ mùa này chín rộm, năng suất bình quân đạt 63 tạ/ha, Cụ Dong tấm tắc khen: “cũng đồng đất ấy, cũng con người ấy, nhưng khi cơ chế thay đổi, trí tuệ, óc sáng tạo của họ được phát triển thì cuộc sống đã thật sự đổi thay”. Bí thư Đảng ủy xã Trầm Lộng Hà Tôn Quyền cho hay, sự thay đổi cơ sở hạ tầng được nâng cấp, đời sống người dân được cải thiện, sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội khởi sắc xuất phát từ ý chí rèn luyện và suy nghĩ vượt khó đi lên. Chẳng thế mà Trầm Lộng trở thành địa phương đầu tiên tại miền Bắc hoàn thành công tác đồn điển đổi thửa, mang đến cho người dân cuộc sống ấm no. Đến nay, ngoài mở rộng diện tích trồng 100 mẫu lúa hàng hóa, 180ha cây trồng vụ đông, Trầm Lộng đã chuyển đổi được 265/465ha đất nông nghiệp sang nuôi trồng thủy sản. Nhiều trang trại nuôi trồng theo mô hình tổng hợp lúa cá vịt làm kinh tế giỏi như các anh Lê Văn Thường, Lê Văn Hợi, Nguyễn Thanh Đảm thôn Kiện Vũ, anh Mai Tuấn Bình thôn Cao Minh... cho thu nhập từ 150 - 200 triệu đồng/ha. Bí thư Đảng ủy xã Trầm Lộng cho biết, mỗi năm, Trầm Lộng thu khoảng 600 tấn cá, 4 triệu quả trứng, trên 100 tấn thịt gà, vịt, 400 tấn thịt lợn hơi, nơi đây trở thành một trong những trọng điểm sản xuất nông nghiệp ở huyện Ứng Hòa.

Cụ Dong, theo dõi những bước chuyển mình của đồng đất khu Cháy tự hào cho biết, không riêng gì Trầm Lộng, các xã Đồng Tân, Minh Đức, Hòa Lâm, Kim Đường, Đại Hùng, Đại Cường, Trung Tú, Đội Bình... cũng đang phát triển mở ra nhiều mô hình nông nghiệp giá trị cao. Theo lời cụ, chúng tôi đến Trung Tú mới thấy hết rõ ý thức chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi hướng tới nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, qui mô lớn. Với diện tích đất canh tác hơn 400ha, mảnh đất có lịch sử lâu đời làm nông nghiệp này đã chuyển đổi gần một nửa đất lúa sang nuôi trồng thủy sản và mở rộng diện tích trồng hơn 100ha lúa hàng hóa chất lượng cao chín vàng óng đã đến độ thu hoạch.

Xem thêm: Những Từ Viết Tắt Ý Nghĩa Trong Tiếng Anh Thông Dụng Nhất, Một Số Từ Viết Tắt Về Tình Yêu Trong Tiếng Anh

Qua câu chuyện với Bí thư Huyện ủy Ứng Hòa Nguyễn Văn Xuyên, chúng tôi được biết, Ứng Hòa xác định tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng qui mô lớn, mũi nhọn là nuôi trồng thủy sản và trồng lúa hàng hóa chất lượng cao. Bí thư Huyện ủy Ứng Hòa cho biết, trong lộ trình từ nay đến năm 2015, mỗi năm huyện phấn đấu mở rộng 600ha diện tích nuôi trồng thủy sản (hiện đã chuyển đổi được 2.250ha với hơn 100 trang trại, vườn trại) và nâng diện đất trồng lúa hàng hóa chất lượng nâng cao lên 45%, tương đương với gần 5.500ha (vụ mùa năm 2011 đã cấy gần 3.000ha). Cùng với đó các dự án mở rộng 230ha chăn nuôi xa khu dân cư tại xã Tảo Dương Văn và Vạn Thái, 1.000ha rau an toàn tại các xã ven sông Đáy đang được gấp gáp triển khai... Dẫu chưa nói hết thành lời, nhưng qua gặp gỡ chia sẻ, chúng tôi cảm nhận, mảnh đất, con người khu Cháy xưa và nay rất đỗi oai hùng, họ giàu tình cảm và đầy nghị lực vươn lên để biến khu Cháy trở thành vựa cá, vựa thóc “vàng”.