Khổng Minh không phải cái tên duy nhất để lại tiếng thơm vì tài "đa mưu túc trí" trong lịch sử Trung Quốc.


Nhắc đến các vị quân sư tài trí tại Trung Hoa, người ta dễ nghĩ ngay tới Khổng Minh Gia Cát Lượng - người nhiều lần hiến kế cho Lưu Bị, giúp nước Thục tạo thế chân vạc thời Tam Quốc.

Bạn đang xem: Quân sư giỏi nhất trung quốc

Tuy vậy, Khổng Minh không phải cái tên duy nhất để lại tiếng thơm vì tài "đa mưu túc trí", trang báo điện tử uy tín Sohu.com gần đây đã đăng tải bảng xếp hạng 10 đại quân sư kiệt xuất nhất trong lịch sử Trung Quốc, cho độc giả thấy rõ tài trí của nhiều vị quân sư lừng lẫy khác.

Tác giả đã sử dụng ba tiêu chí cụ thể để chấm điểm từng nhân vật lịch sử trên thang 30 điểm và đưa ra lý do cho điểm số này. Tuy còn nhiều tranh cãi bên lề, bảng xếp hạng của Sohu vẫn được coi là cách tiếp cận lịch sử thú vị và sáng tạo, đáng để độc giả tham khảo.

Ba tiêu chí được Sohu sử dụng cụ thể như sau:

1. Thực lực quốc gia trước khi khởi binh và so sánh với đối thủ (chênh lệch càng lớn, điểm càng cao)

2. Thành tích của quân sư trước và sau khi tòng quân (chênh lệch càng lớn, điểm càng cao)

3. Kết quả cuối cùng của cuộc chiến (thống nhất được giang sơn tính điểm cao hơn chỉ có quyền lực cát cứ)

Theo thang điểm như trên, Sohu đã công bố bảng xếp hạng "Thập đại quân sư kiệt xuất nhất trong lịch sử Trung Quốc":



Phạm Văn Trình (1597 - 1666) là vị danh thần sống ở thời kỳ chuyển giao giữa nhà Minh và nhà Thanh. Văn Trình vốn có xuất thân cao quý, ông là hậu duệ của Phạm Trọng Yêm, một vị quan có công lớn giúp triều đình nhà Tống đánh đuổi Tây Hạ.

Cuối thời nhà Minh, Phạm Văn Trình thi đỗ đạt cao nhưng chưa được bao lâu thì thủ lĩnh bộ tộc Nữ Chân Nỗ Nhĩ Cáp Xích khởi binh đánh đổ nhà Minh, theo "Thanh Thái tổ Cao Hoàng đế thực lục".

Văn Trình bị bắt, trở thành quân sư cho Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Ông nhiều lần tham mưu, điều binh khiển tướng và đích thân ra trận đánh quân Minh nhưng vẫn không được thủ lĩnh Nữ Chân tin tưởng.

Thời thế xoay chuyển khi con trai của Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Hoàng Thái Cực lên ngôi - sáng lập nên triều Thanh, Văn Trình được vị hoàng đế này hết mực trọng vọng và trở thành khai quốc công thần của nhà Thanh.

Quân sư Văn Trình tiếp tục nghĩ ra trăm phương ngàn kế đánh Minh, xúi giục các quan triều Minh làm phản; giúp vua dẹp Triều Tiên, an Mông Cổ và xây dựng thể chế nhà nước mới. Hoàng Thái Cực rất tin tưởng quân sư nên các quốc thư, sắc chỉ đều do Văn Trình soạn thảo. Ban đầu, vua còn xem xét, về sau còn không đọc lại nữa.

"Tuất vô cáo" có ghi, vào năm 1644, khi Đa Nhĩ Cổn tiếp nối sự nghiệp chinh phạt nhà Minh mà Hoàng Thái Cực chưa hoàn thành, Phạm Văn Trình đã dâng sớ khuyên nhủ:

"Trước đây quân ta từng đánh sâu vào nội địa nhà Minh, nhưng chỉ chém giết, đốt phá, cướp bóc, rồi rút lui, cho nên sự nghiệp chinh phạt nhà Minh phải giữa chừng bỏ dở.

Bá tánh cho rằng chúng ta chỉ là những người tham lam tiền của, gia súc, chứ không có chí lớn, nên trong lòng họ vẫn hoài nghi, không có sự tín nhiệm gì đối với chúng ta cả."

Phạm Văn Trình cũng nhiều lần nhắc nhở tầng lớp thống trị tối cao của nhà Thanh rằng từ xưa tới nay chưa có ai nhờ giết chóc mà giành thiên hạ cả. Nếu muốn giành quyền thống trị toàn quốc thì chỉ có cách thay đổi thái độ, tìm người tài chăm lo cho bá tánh, "cấm ngặt không xâm phạm tới cây kim sợi chỉ của dân".

Sách lược nay đối với việc khai quốc của triều nhà Thanh đã có tác đụng rất quan trọng.

Quân sư họ Phạm sống đến năm Khang Hy thứ 5 và được trọng dụng trong suốt bốn triều đại. Dù vẫn còn gây nhiều tranh cãi nhưng xét về góc độ một nhà cầm quân, Phạm Văn Trình đã có công lao lớn giúp nhà Thanh lớn mạnh nhanh chóng và thống nhất đất nước.

1. Thực lực quốc gia trước khi khởi binh và so sánh với đối thủ: 7 điểm

2. Thành tích của quân sư trước và sau khi tòng quân: 5 điểm

3. Kết quả cuối cùng của cuộc chiến: 8 điểm

Tổng điểm: 20 điểm.



Quân sư Phạm Lãi (536 TCN - 448 TCN) là người có công giúp trong việc giúp Việt Vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô. Phạm Lãi vốn là người nước Sở nhưng nhận thấy mình không thể làm nên nghiệp lớn ở quê nhà nên tới năm 511 TCN, ông đã cùng người bạn của mình là Văn Chủng đến nước chư hầu Ư Việt.

Vào thời điểm đó, vua chúa quý tộc Ư Việt rất cao ngạo, coi thường Phạm Lãi và Văn Chủng. Mãi tới năm 494 TCN, khi nước này đứng trước bờ diệt vong trước nước Ngô thì mới cầu cứu Phạm Lãi.

Theo "Ngô Việt xuân thu", Phạm Lãi sau này đã dùng mỹ nhân kế dâng người đẹp ""trầm ngư" Tây Thi cho vua nước Ngô là Ngô Phù Sai, khiến ông ta bỏ bê triều chính, giết hại trung thần. Nhờ đó mà Việt Vương Câu Tiễn (lúc này đang bị vua Ngô bắt làm con tin) mới được thả về nước và gây dựng lực lượng đánh bại kẻ thù.

1. Thực lực quốc gia trước khi khởi binh và so sánh với đối thủ: 7 điểm

2. Thành tích của quân sư trước và sau khi tòng quân: 7 điểm

3. Kết quả cuối cùng của cuộc chiến: 7 điểm

Tổng điểm: 21 điểm.




Vương Mãnh (325 - 375) là một tể tướng, quân sư thân cận của Tiền Tần Vương Phù Kiên - một trong 5 vị hoàng đế xuất sắc nhất lịch sử Trung Hoa.

Trái với nhiều vị quan lại trong triều, Vương Mãnh vốn có xuất thân nghèo khó, từng phải đi buôn bán kiếm kế sinh nhai. Vương Mãnh may mắn kết bạn với Phù Kiên khiêm tốn, ham học, hai người cùng nhau cố gắng gây dựng cơ nghiệp.

Đến năm 357, Phù Kiên đảo chính thành công, lên làm hoàng đế nhà Tiền Tần. Vương Mãnh nhờ đó cũng nắm chức tam công - một trong ba chức quan cao cấp nhất trong triều đình.

Dưới thời đại này, Phù Kiên và Vương Mãnh chỉ mất 10 năm (366 - 376) để thống nhất phía Bắc, cùng với Đông Tấn hình thành nên cục diện Nam Bắc đối đầu.

Quân sư họ Vương còn giúp vua chỉnh đốn nội chính. Những ghi chép và đánh giá lưu lại đến ngày nay cho thấy, sự nghiệp của Phù Kiên trong giai đoạn đầu sở dĩ thuận buồm xuôi gió, đều là nhờ có trợ thủ đắc lực Vương Mãnh.

Đáng tiếc thay, Vương Mãng chỉ thọ được đến 50 tuổi, Tiền Tần Vương Phù Kiên sau đó không nghe dặn dò của ông mà vẫn quyết đánh Đông Tấn nên nước mất nhà tan, triều đại huy hoàng sớm sụp đổ.

1. Thực lực quốc gia trước khi khởi binh và so sánh với đối thủ: 8 điểm

2. Thành tích của quân sư trước và sau khi tòng quân: 8 điểm

3. Kết quả cuối cùng của cuộc chiến: 6 điểm

Tổng điểm: 22 điểm.



Sẽ không phải quá lời khi nói Khổng Minh Gia Cát Lượng (181 - 234) chính là vị quân sư nổi tiếng nhất lịch sử Trung Hoa. Sử liệu "Tam quốc chí" cho thấy ông có tài năng trên rất nhiều lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, ngoại giao, pháp luật cho tới giáo dục, phong thủy, phát minh kỹ thuật.

Trước kia, khi Gia Cát Lượng còn ẩn mình trên núi Ngọa Long, Lưu Bị đã phải "tam cố thảo lư" (3 lần lui tới nhà tranh để mời bằng được nhân tài).

Sau khi về phò tá Lưu Bị, vị quân sư toàn tài nhanh chóng gặt hái chiến công chiếm cứ Kinh Châu và Ích Châu, giúp chủ soái củng cố quyền lực. Sau đó là một loạt chiến dịch quân sự do quân Thục Hán tấn công vào Tào Ngụy, giúp Lưu Bị có cơ hội phân chia thiên hạ.

Vào năm Thục Hán thứ nhất (221), Lưu Bị chính thức lên ngôi, lập nên nước Thục. Gia Cát Lượng làm tể tướng ở tuổi 40. Quân sư nước Thục đã mất 14 năm để đưa chủ soái của mình lên ngôi vương nhưng đáng tiếc sau này Lưu Bị vì nóng giận mà vội vàng đánh Đông Ngô, dẫn đến kết cục thảm bại.

Là người toàn tài và có nhiều chiến tích nổi bật trong suốt sự nghiệp nhưng
Gia Cát Lượng vẫn chỉ đứng ở vị trí thứ 7 trong danh sách là bởi cuối cùng nước Thục đã không thể hoàn thành chiến lược "Long Trung đối sách" mà ông đặt ra.

Chiến lược của Gia Cát chỉ dừng lại ở sự thành lập của nhà Thục Hán, một trong ba chân kiềng của Tam Quốc, để rồi cuối cùng bị nhà Ngụy thôn tính trước khi Trung Quốc thống nhất dưới thời nhà Tấn.

1. Thực lực quốc gia trước khi khởi binh và so sánh với đối thủ: 8.5 điểm

2. Thành tích của quân sư trước và sau khi tòng quân: 8.5 điểm

3. Kết quả cuối cùng của cuộc chiến: 6 điểm

Tổng điểm: 23 điểm.


Quản Trọng (723 TCN - 645 TCN) là vị tể tướng hàng đầu dưới thời Xuân Thu. Thuở nhỏ gia cảnh bần khố, ông được phát hiện tài năng rồi được mời vào triều làm đại phu. Quản Trọng từng là người phò tá Công tử Củ.

Sau này nước Tề bạo loạn, Công tử Củ và Công tử Tiểu Bạch tranh nhau cướp ngôi. Công tử Tiểu Bạch chiếm được ngôi vương, liền giết chết Công tử Củ và bắt giam Quản Trọng.

Đến thời điểm trị vì, Tề Hoàn Công tức Công tử Tiểu Bạch gặp nhiều việc triều chính khó khăn do tướng lĩnh nhà Tề vừa phải lo đối đầu với nạn cướp bóc của dân du mục, vừa giải quyết nội chiến. Lúc này vua nói, quần thần cũng không nghe.

Có điển cố kể rằng, Tề Hoàn Công thấy chuyện khó mới cất công đi hỏi Quản Trọng: "Ta đây có 3 tật xấu là háo sắc, nghiện rượu, mê săn bắn. Không biết điều này có ảnh hưởng gì tới việc trị quốc không?"

Quản Trọng đứng trước người từng muốn hại mình, vẫn thẳng thắn đáp: "Háo sắc, nghiện rượu, mê săn bắn đều không có hại cho quốc gia. Không nghe lời hiền tài mới là gây hại cho quốc gia."

Vua nghe theo lời Quản Trọng, chẳng mấy chốc nước Tề đã diệt trừ man rợ, quần thần tôn kính nhà vua. Từ đó, nước Tề trở thành nước chư hầu lớn mạnh hàng đầu, Quản Trọng được phong làm tể tướng.

Cái hay của quân sư Quản Trọng là biết dẹp đi mối tư thù, không mãi ôm những chuyện hận thù quá khứ mà hướng tới thái bình của con dân nghìn năm.

Trong cuốn "Tứ thư", Khổng Tử đã từng nhận xét: "Quản Trọng làm tể tướng cho Tề Hoàn Công, giúp Tề Hoàn Công bá chủ chư hầu, làm cho thiên hạ thái bình, đến đời nay dân vẫn còn chịu ơn.

Nếu không có Quản Trọng, sợ chúng ta hôm nay còn đầu bù tóc rối, áo quần rách rưới lang thang khắp đây đó. Quản Trọng đâu có như người thường, vì việc nhỏ mà tự sát ở khe núi để cho chẳng ai biết đến."

1. Thực lực quốc gia trước khi khởi binh và so sánh với đối thủ: 7.5 điểm

2. Thành tích của quân sư trước và sau khi tòng quân: 8.5 điểm

3. Kết quả cuối cùng của cuộc chiến: 8 điểm

Tổng điểm: 24 điểm.


Y Doãn (1649 TCN - 1550 TCN) là vị danh tướng nổi tiếng nhất trong triều đại nhà Thương, ông có công phò tá Thành Thang tiêu diệt vua cuối cùng tàn bạo của nhà Hạ, lập nên triều đại mới.

Điều đặc biệt là vị quân sư vốn này có xuất thân rất thấp, ông chỉ là một kẻ nô lệ bồi giá (nghĩa là nô lệ làm của hồi môn theo cô dâu về nhà chồng), giữ nhiệm vụ nấu ăn. Tuy nhiên, theo tập thơ "Kinh Thi - Thương tụng", Y Doãn là nô lệ của Sân thị - một người thiếp của vua, nên mới được nhập cung.

Một lần nhân cơ hội dâng cơm cho Thành Thang, Y Doãn liền phân tích tình thế thiên hạ, rất được vua tán thưởng, bèn xóa bỏ thân phận nô lệ, phong cho ông ta làm Tể Tướng.

Y Doãn tâm niệm: "Trị đại quốc cũng giống như cho gia vị vào món ăn" - ý chỉ việc dùng người tài phải biết bình tĩnh điều chỉnh cho phù hợp với đại nghiệp. Con cá tanh nếu biết nêm nếm gia vị đúng liều lượng, chỉnh lửa vừa đủ thì cũng sẽ thành món ăn ngon.

Trong suốt cuộc đời mình, Y Doãn đã có công rèn giũa, tôi luyện 5 vị vua nhà Thương và có những đóng góp cho sự thịnh vượng của vương triều này cho tới năm 100 tuổi.

Sử gia thời Xuân Thu Tả Khâu Minh trong "Tả truyện" đã nhận xét "Y Doãn không chỉ là một nhà chính trị kiệt xuất, mà còn là một hình mẫu đạo đức, người như ông chỉ một không hai trong lịch sử".

1. Thực lực quốc gia trước khi khởi binh và so sánh với đối thủ: 8 điểm

2. Thành tích của quân sư trước và sau khi tòng quân: 8 điểm

3. Kết quả cuối cùng của cuộc chiến: 9 điểm

Tổng điểm: 25 điểm.


Diêu Quảng Hiếu (1335-1418), pháp danh Đạo Diễn, là một trong những mưu sĩ đắc lực của Minh Thành Tổ, ông cũng là một bậc cao tăng từng xuất gia nhưng lại không "trốn đời" mà ra tay phò tá thiên tử.

Để tuân theo lễ chế của triều đình và tôn trọng Hoàng đế, Diêu Quảng Hiếu thượng triều thì mặc quan phục, thoái triều thì mặc tăng phục, mọi người gọi ông là "Tể tướng áo đen" (thời xưa tăng nhân mặc áo khoác đen).

"Tể tướng áo đen" làm quân sư cho Minh Thành Tổ khi vua chỉ ngoài 20 tuổi. Xuất thân là hòa thượng nhưng Đạo Diễn lại đưa ra sách lược chuẩn xác, thân ngồi trong trướng nhưng lại có thể chỉ huy thiên quân vạn mã, quyết định thắng thua ngoài ngàn dặm.

Vị quân sư cũng nổi tiếng có tầm lòng từ bi, thương dân không màng danh lợi. Sử sách có ghi, năm Vĩnh Lạc thứ 2, vùng Chiết Giang, Giang Nam xảy ra lũ lụt, dân chúng bị thiên tai, lương thực thiếu nguy cấp.

Diêu Quảng Hiếu lĩnh mệnh thiên tử, bất chấp tuổi tác cao ngoài 70, thời tiết nóng nực vẫn đến từng nơi đốc thúc các châu, huyện khẩn cấp phát lương thực cứu tế, "nghĩ đến cái đói của người như chính mình đói vậy, cứu tế nhân dân qua thiên tai".

Ngoài ra, Diêu Quảng Hiếu còn tinh thông Nho giáo, ông từng tham gia biên soạn "Vĩnh Lạc đại điển" và "Minh Thái Tổ thực lục".

Lý Chí, sử gia nổi tiếng thời nhà Minh đã từng nói: "Trong 200 năm, con dân nhà Minh đã được ấm no, bình yên, quên đi chiến tranh. Tất cả đều là nhờ công của Minh Thành Tổ và Diêu Quảng Hiếu."

1. Thực lực quốc gia trước khi khởi binh và so sánh với đối thủ: 9 điểm

2. Thành tích của quân sư trước và sau khi tòng quân: 8 điểm

3. Kết quả cuối cùng của cuộc chiến: 9 điểm

Tổng điểm: 26 điểm.


Trương Lương (? - trước năm 189) là danh thần khai quốc nổi tiếng thời nhà Hán. Ông cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà đóng vai trò quan trọng giúp Lưu Bang đánh đổ nhà Tần và thắng Hạng Vũ trong chiến tranh Hán - Sở rồi sáng lập ra nhà Hán.

Năm 206 TCN, "Mưu Thánh" Trương Lương từng hiến kế cứu chủ soái Lưu Bang "kiếp nạn" Hồng Môn Yến - một bữa ăn được Hạng Vũ dựng lên để tìm kế triệt hạ Lưu Bang.

"Sử ký" kể lại, do thấu hiểu Hạng Vũ là kẻ ngạo mạn, quân sư Trương Lương đã sớm căn dặn chủ soái của mình đến tiệc phải ứng xử khiêm nhường, phải liên tục ngợi khen Hạng Vũ là bậc kỳ tài trong thiên hạ. Quả nhiên sau đó, những lời "mật ngọt" từ miệng Lưu Bang đã khiến Hạng Vũ mủi lòng, quyết định "thả hổ về rừng" mà không động thủ.

Bốn năm sau, giữa lúc chiến tranh Hán - Sở đi vào giai đoạn ác liệt nhất, Trương Lương lại một lần nữa dùng tài ăn nói của mình thu phục danh tướng Hàn Tín để Hàn Tín bỏ qua hiềm khích trở về kề vai chiến đấu với chủ soái.

"Mưu Thánh" còn bày cho Lưu Bang cách dùng của cải, đất đai phong thưởng cho các nước chư hầu để có được sự ủng hộ của họ.

Nhờ những diệu kế này, quân Hán trở nên hùng mạnh và chiến thắng trận đánh then chốt ở Cai Hạ, kết thúc 5 năm ròng Hán - Sở tranh hùng. Nhờ đó, Lưu Bang thống nhất được thiên hạ, lên ngôi hoàng đế và lấy hiệu là Hán Cao Tổ.

Tài năng và tầm nhìn của Trương Lương đã khiến sử gia Tư Mã Thiên hết mực nể trọng.

Trong cuốn "Sử Ký", Tư Mã Thiên đã xếp câu chuyện của ông vào phần Thế gia, tức là phần dành cho các nước chư hầu, những người có địa vị lớn trong giới quý tộc trong khi Hàn Tín chỉ được cho vào phần Liệt truyện - các sự kiện, câu chuyện ít quan trọng hơn.

Nói về sức hấp dẫn của hình tượng Trương Lương trong văn học sau này, Tiến sĩ văn học Trịnh Văn Định cũng trình bày trong bài nghiên cứu của mình: "Dễ nhận thấy nhất là sức hút của nhân vật lịch sử lừng danh Trương Lương trải dài xuyên suốt lịch sử văn hóa Trung Hoa và hấp dẫn đa số những nhà nho có sáng tác thi ca.

Nổi bật là, những nhân vật quan tâm sâu sắc, say mê và dành cho Trương Lương sự quan tâm đặc biệt nhất thuộc về những thi nhân, những nhà văn hóa và những nhà hoạt động chính trị hàng đầu của Trung Hoa."

1. Thực lực quốc gia trước khi khởi binh và so sánh với đối thủ: 9 điểm

2. Thành tích của quân sư trước và sau khi tòng quân: 9 điểm

3. Kết quả cuối cùng của cuộc chiến: 9 điểm

Tổng điểm: 27 điểm.


Lưu Bá Ôn (1311 – 1375), tên thật là Lưu Cơ, được người đời sau mệnh danh là "Thần cơ diệu toán" bởi ông luôn có mưu kế thần tình, tiên đoán được thời cuộc, đường đi nước bước của quân địch và đặc biệt rất giỏi thiên văn. Bởi vậy nên thành ngữ Trung Hoa mới có câu: "Thông binh pháp ai hơn Tôn Võ. Giỏi thiên văn phải kể Lưu Cơ"

Bá Ôn thường được biết đến với vai trò công thần khai quốc nhà Minh, đi theo phò tá Chu Nguyên Chương hoàn thành đế nghiệp.

Trước khi gặp Chu Nguyên Chương, Lưu Bá Ôn từng được bổ nhiệm làm quan dưới triều Nguyên nhưng thời điểm nay quan lại tham ô, xã hội nhà Nguyên lung lay nên một người thanh liêm như ông nhanh chóng bị đào thải.

Theo cuốn "Sử ký Nhà Minh", sau này khi Chu Nguyên Chương cùng nghĩa quân Khăn Đỏ đứng lên lật đổ triều đại, vị Hoàng đế tương lai đã mời Lưu Bá Ôn về tham mưu cho mình.

Nghĩa quân Khăn Đỏ lúc này bị kẹp ở "thế gọng kìm", đứng giữa Trương Sĩ Thành và Trần Hữu Lượng, không biết phải dùng quân đánh ai.

Lưu Bá Ôn do nhìn thấu đối phương đã hiến kế đánh Trần Hưu Lượng trước (vì tên này hiếu thắng và nông nổi), còn Trương Sĩ Thành có thể xử lý sau vì bản chất hắn không có ý định trành giành lãnh thổ. Lưu Cơ "ở trong màn trướng" mà có thể nhìn thấu quân địch như vật quả thực không phải người tầm thường.

Tập tư liệu "Nhân vật lịch sử vĩ đại" được lưu giữ tại Thư viện Chiết Giang từng kể lại trận thủy chiến trên hồ Bà Dương giữa quân Chu Nguyên Chương và Trần Hữu Lượng.

Trước trận chiến, quân sư họ Lưu dựa vào quan sát thiên văn đã dự đoán đến khi hoàng hôn thì sẽ có gió Đông Bắc thổi. Ông cho thuyền hỏa công ra chất hình nộm nhúng dầu hỏa ra giữa hồ, móc thuyền vào quân địch.

Đợi đến khi gió Đông Bắc thổi, quân binh châm lửa đốt thuyền, lửa lan sang tàu lớn của địch, thiêu rụi tướng sĩ và quân lương. Bằng cách này, quân đội của Chu Nguyên Chương đã dễ dàng giành chiến thắng.

Là người "đa mưu túc trí", tận tâm tận lực nhưng vẫn vô cùng trung thành, Lưu Bá Ôn đã thành công trong việc phò tá Chu Nguyên Chương lên làm Hoàng đế khai quốc nhà Minh, mở ra một vương triều thịnh vượng. Đáng tiếc rằng sau khi trở thành công thần, Lưu Bá Ôn lại gặp phải nhiều sóng gió, oan khuất. Đến cuối đời, ông đành phải xin cáo quan về ở ẩn tìm sự bình yên.

1. Thực lực quốc gia trước khi khởi binh và so sánh với đối thủ: 10 điểm

2. Thành tích của quân sư trước và sau khi tòng quân: 9 điểm

3. Kết quả cuối cùng của cuộc chiến: 9 điểm

Tổng điểm: 28 điểm.


Cái tên đứng đầu trong danh sách Thập đại quân sư chắc hẳn không phải một người tầm thường, bởi vị quân sư này bắt đầu phò tá quân vương khi đã bước sang tuổi 80 nhưng lại giúp gây dựng triều đại lâu dài nhất lịch sử Trung Quốc (800 năm) - nhà Chu. Ông chính là Khương Tử Nha (1156 TCN - Khoảng 1017 TCN) hay Khương Thượng, vị khai quốc công thần của triều đại nhà Chu.

"Sử ký" dẫn rằng, Khương Tử Nha từng làm quan cho Trụ Vương của nhà Thương, nhưng vì thấy vua Trụ vô đạo, lạm sát bách tính, bỏ bê triều chính nên ông quyết định rời bỏ bạo chúa để đi tìm đấng minh quân. Khương Tử Nha gặp được Cơ Xương thủ lĩnh bộ tộc Chu và sau này là người xây nền móng triều đại nhà Chu.

Ông đã có công phò tá Chu Văn Vương (Cơ Xương) và Chu Vũ Vương, diệt trừ Trụ Vương nên được cắt cho mảnh đất phong ở vùng biên giới. Khương Thượng trở thành quân chủ khai lập nên một nước chư hầu mới là nước Tề.

Theo nhiều đánh giá, những hệ tư tưởng của Nho giáo, Đạo giáo, Binh pháp… đều lấy tư tưởng của ông làm gốc. Không thể phủ nhận tầm ảnh hưởng của ông tới những bậc hiền triết, tướng sĩ của thế hệ sau.

Tư tưởng quân sự của ông trong "Binh pháp Lục Thao" có thể coi là bộ binh pháp lâu đời nhất Trung Quốc; các nhà cầm quân nổi tiếng như Tôn Vũ, Gia Cát Lượng… cũng đều từng hấp thu tinh hoa trong tác phẩm này.

Dân gian Trung Quốc cũng lưu truyền câu nói rằng "Khương Thượng trước, Tôn Tẫn sau, năm trăm năm trước Gia Cát Lượng, năm trăm năm sau Lưu Bá Ôn".

1. Thực lực quốc gia trước khi khởi binh và so sánh với đối thủ: 10 điểm

2. Thành tích của quân sư trước và sau khi tòng quân: 10 điểm

3. Kết quả cuối cùng của cuộc chiến: 10 điểm

Tổng điểm: 30 điểm.


7 điều tôi hối tiếc vì đã KHÔNG LÀM ở độ tuổi 20-30: Tiết kiệm tiền, ít thể hiện tiếng nói của mình trong công việc, không chăm sóc sức khoẻ...

Mặc dù rất khó để tìm ra được người giỏi nhất trong tất cả các vị quân sư này nhưng 12 cái tên sau đây có thể xem là những cái tên nổi bật nhất Trung Hoa cổ đại.

1. Bàng Thống

Bàng Thống, tự Sỹ Nguyên (178-214), đạo hiệu Phượng Sồ tiên sinh, sống vào cuối thời nhà Hán, đầu thời Tam Quốc, thường được người đời sau so sánh là tài ngang với Khổng Minh. Tư Mã Huy (Thủy Kính tiên sinh) nhận xét: “Nếu được một trong hai người Ngọa Long (tức Khổng Minh) hoặc Phượng Sồ (tức Bàng Thống) thì có thể định hưng được thiên hạ”.

*

Trong trận Xích Bích, Bàng Thống hiến kế cho Tào Tháo dùng xích sắt ghép các thuyền lại thành một cụm để tránh cho quân sĩ say sóng, nhưng thực chất là để quân Ngô Thục tiện dùng kế hỏa công. Nhờ Bàng Thống mà khi Chu Du sử dụng hỏa công, thuyền của Tào Tháo tập trung lại thành một cụm nên không chạy thoát được, cháy rụi hết, góp phần rất lớn cho trận thắng Xích Bích.

Sau này khi Chu Du mất, Tôn Quyền không còn trọng dụng, Bàng Thống đã về phò tá Lưu Bị, làm chức Quân sư trung lang tướng, cùng cấp với Gia Cát Lượng. Với vai trò quân sư, Bàng Thống dẫn 5 vạn quân vào Tây Xuyên, cùng Pháp Chính bàn mưu chiếm Tây Thục của Lưu Chương, tạo nên lãnh thổ rộng lớn của nhà Thục Hán. Tuy nhiên, trong chiến dịch này ông bị trúng tên, mất tại đồi Lạc Phương khi mới 36 tuổi.

2. Tư Mã Ý

Tư Mã Ý (179 - 251) tự Trọng Đạt, là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất, người đặt nền móng cho nhà Tây Tấn thay thế nhà Ngụỵ.

Ông nổi tiếng nhất với các chiến dịch bảo vệ lãnh thổ Tào Ngụy khỏi các cuộc Bắc phạt của Gia Cát Lượng. Tư Mã Ý là một vị tướng, nhà chiến lược quân sự đa mưu túc trí có thể sánh ngang Gia Cát Khổng Minh. Hai người trở thành cặp kỳ phùng địch thủ, đánh nhau rất nhiều lần nhưng không ai tiêu diệt được ai.

*

Trong thời gian phục vụ nhà Tào Ngụy, Tư Mã Ý lập được rất nhiều chiến công như: Đánh bại Công Tôn Uyên, dẹp loạn Vương Lăng và nhiều chiến công hiển hách khác. Vị trí quyền lực nhất của ông trong triều đình nhà Ngụy đã tạo điều kiện cho hai con ông là Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu nắm quyền lực thực tế của nhà Ngụy, tạo tiền đề cho cháu của ông là Tư Mã Viêm soán ngôi nhà Ngụy, thành lập nhà Tấn, thống nhất Trung Hoa, chấm dứt thời kỳ Tam Quốc. Sau khi nhà Tấn lập, Tư Mã Ý được cháu mình truy tôn thụy hiệu là Tấn Tuyên Đế, miếu hiệu Cao Tổ.

3. Quách Gia

Quách Gia (170 - 207), tự Phụng Hiếu, là nhà chiến lược và quân sư trọng yếu của Tào Tháo trong thời kỳ cuối của nhà Đông Hán và thời kỳ đầu của Tam Quốc tại Trung Quốc.

Trong 11 năm phục vụ cho Tào Tháo, tài năng của Quách Gia đã góp công lớn giúp Tào Tháo chiến thắng các lãnh chúa kẻ thù như Lã Bố và Viên Thiệu, cũng như thủ lĩnh của bộ lạc Ô Hoàn là Đạp Đốn. Chính vì thế, ông là một trong những bộ hạ được tin tưởng và yêu quý nhất của Tào Tháo.

*

Trong trận Quan Độ, đứng trước trận tiền ông có nói với Tào Tháo: “Thừa tướng còn đang theo dõi đợi chờ à?”. Tào Tháo trả lời: “Viên Thiệu thế định tới đây đáng nhẽ phải giữ thế tấn công, nay hắn lại dùng phụng bài trước trận tiền, ý của ngươi là hắn muốn thủ?”. Khi đó Quách Gia nói một câu chính xác ý nghĩa cho cả trận đánh: “Viên Thiệu có thể thủ, nhưng Thừa tướng không thể nào làm như vậy, quân ta tinh nhuệ một chọi lại mười, cần phải tác chiến ngay lập tức, chần chừ đôi lúc lòng quân phập phồng thì nguy hiểm lắm”.

Quách Gia thường được xem là một trong những mưu sĩ xuất sắc nhất thời Tam Quốc và cả xuyên suốt lịch sử Trung Quốc, không hề thua kém người đương thời là Gia Cát Lượng.

4. Gia Cát Lượng

Gia Cát Lượng (181 - 234) là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự kiệt xuất, nhà tiên tri nổi tiếng.

Gia Cát Lượng là một nhà ngoại giao cự phách và cũng là một nhà phát minh tài ba. Trong lĩnh vực quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu gỗ ngựa máy). Tương truyền, ông còn là người chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao. Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa.

*

Đóng góp lớn nhất của Gia Cát Lượng chính là việc bày ra “Long Trung đối sách”. Chiến lược này được coi là nền tảng để Lưu bị đánh chiếm đất đai nhằm tạo thế chân vạc với hai thế lực chính thời bấy giờ là Tào Tháo và Tôn Quyền. Ông được công nhận là một trong những chiến lược gia vĩ đại và xuất sắc nhất trong thời đại của mình và được so sánh với một chiến lược gia tài ba khác của Trung Quốc là Tôn Tử.

5. Chu Du

Chu Du (175 - 210), tự Công Cẩn, đương thời gọi Chu Lang, là danh tướng khai quốc công thần của nước Ngô (Đông Ngô) thời Tam Quốc. Tương truyền, Chu Du đẹp trai và rất giỏi âm luật nên được gọi là Mỹ Chu Lang. Ông là nhà quân sự tài ba, chuyên về thủy chiến, chức vụ chính thức là Đại đô đốc thủy quân, nên được gọi là Chu Đô đốc. Chu Du nổi tiếng với chiến thắng ở sông Xích Bích trước quân Tào Tháo, là trận chiến lớn nhất thời đó.

*

Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, La Quán Trung xây dựng Chu Du thành hình tượng một người luôn đố kỵ với tài năng của Gia Cát Lượng, nổi tiếng hơn cả với câu nói: “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?“. Tuy nhiên, trên thực tế, Chu Du là người khí độ cao thượng, phong lưu tài tử, văn võ toàn tài, hoàn toàn không có chuyện đố kỵ nhỏ nhen như thế. Trong “Tam Quốc Chí” (sử liệu đáng tin nhất về thời Tam Quốc của sử gia Trần Thọ) đánh giá Chu Du: “Tính tình khoáng đạt, đại lượng… là bậc kỳ tài!”. Ông đối với người bề dưới đều có lễ nghĩa, được mọi người vô cùng kính trọng.

Sau này, khi Chu Du mất ở tuổi 35, Giang Đông cũng thiếu đi một tướng quân dũng lược, chí khí, đối với Ngụy và Thục trước sau chỉ có thể là phòng thủ mà thôi. Nếu Chu Lang có thể sống thêm 20 năm nữa, cục diện Tam Quốc có lẽ đã khác đi nhiều lắm.

6. Lục Tốn

Lục Tốn (183 - 245) tự Bá Ngôn, là tướng lĩnh cũng là quân sư của Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng qua trận Di Lăng vào năm 222 đánh bại quân Thục Hán của Lưu Bị, khiến ông trở thành một trong những quân sư nổi tiếng của thời Tam Quốc.

Năm 219, nhân lúc Lưu Bị và Tào Tháo đanh tranh giành Hán Trung, Quan Vũ lại dẫn quân đánh Tương Dương, không quan tâm đến Kinh Châu - nơi Đông Ngô đã dòm ngó từ lâu - Lục Tốn đã bày kế cho Lã Mông chiếm Kinh Châu, giết được đại tướng của Thục Hán là Quan Vũ, phá tan âm mưu lấy Kinh Châu làm bàn đạp đánh Tào Ngụy của Gia Cát Lượng.

*

Năm 222, Lưu Bị dẫn 75 vạn quân đánh Đông Ngô báo thù cho Quan Vũ. Lúc này các quân sư hàng đầu của Đông Ngô như Chu Du, Lỗ Túc và Lã Mông đã qua đời nên trọng trách bảo vệ Đông Ngô được giao cho Lục Tốn. Biết Lưu Bị không có kinh nghiệm dùng binh, đóng quân ở nơi tử địa nên Lục Tốn đã dùng hỏa công tiêu diệt 70 doanh trại của Lưu Bị, đánh tan 75 vạn quân của Lưu Bị.

Sau trận Di Lăng, Đông Ngô và Thục Hán kí hòa ước nên từ năm 222 đến năm 245, Lục Tốn đã nhiều lần đánh đuổi quân Ngụy, bảo vệ thành công Đông Ngô. Ông được cho là người phát ngôn câu nói nổi tiếng: “Lấy dân làm gốc, dân giàu thì nước mạnh, dân nghèo thì nước yếu”.

7. Khương Tử Nha

Khương Tử Nha (1156 - 1017 TCN), nguyên họ tên là Khương Vọng, còn tên là Tử Nha, vốn thuộc thị tộc mang huyết thống họ Khương, sau thiên cư sang đất Lã (phía Tây Nam Dương, Hà Nam ngày nay) nên đổi sang họ Lã. Khi làm Thái sứ triều Chu, được tôn xưng là Sư Thượng phu (người cha tôn kính của quân đội) nên đời sau gọi ông là Lã Thượng. Ông phò tá Chu Vũ Vương diệt nhà Thương, đồng thời cũng là người gây dựng nên nước Tề, nhờ có công mà ông được phong cho đất Tề và trở thành thủy tổ của nước Tề thời Chu. Trở thành Quốc Quân một nước chư hầu, Lã Thượng đã thi hành một chính sách sáng suốt và khôn khéo để thu phục lòng người, như tôn trọng phong tục bản địa, đơn giản mọi lễ nghi phiền toái, mở mang công thương nghiệp, khai thác nguồn lợi của nghề đánh cá, làm muối... Tề sau này trở thành một nước mạnh suốt trong thời Tây và Đông Chu là nhờ công khai sáng của Lã Thượng.

*

Trong lịch sử Trung Hoa, Khương Tử Nha là nhà chính trị, nhà quân sự và mưu lược nổi tiếng nhất. Khương Tử Nha thọ đến 139 tuổi. Dân gian Trung Quốc cũng lưu truyền câu nói rằng "Khương Thượng trước, Tôn Tẫn sau, năm trăm năm trước Gia Cát Lượng, năm trăm năm sau Lưu Bá Ôn".

Đã có nhiều truyền thuyết được lưu truyền xung quanh cuộc đời ông trước khi ông theo phò tá nhà Chu, hầu hết đều đề cập tới việc ""Lã Vọng là con cháu của một dòng họ quý tộc đã sa sút cuối đời Thượng, thời niên thiếu được hấp thụ nền giáo dục dành riêng cho giới quý tộc nên có học vấn uyên bác. Sau vì lận đận nhiều trong cuộc sống, không được vua Trụ trọng dụng, ông phiêu bạt khắp nước và rồi về ngồi câu cá bên Sông Vị để chờ thời". Điển tích này là đề tài cho bức tranh ông già buông cần câu bên Sông Vị. Sau Chu Văn Vương đi tới, gặp gỡ và đàm đạo, phát hiện ra ông là nhân tài xuất chúng liền đón về, phong làm Thái sư - chức quan cao nhất cả về quân sự và chính trị đầu đời Chu.

8. Tôn Tẫn

*

Tôn Tẫn là vị quân sư nổi danh thời Chiến Quốc, là hậu duệ của Tôn Vũ. Thuở niên thiếu, ông từng cùng với Bàng Quyên theo học binh pháp của Quỷ Cốc Tử. Sau khi Bàng Quyên làm tướng nhà Ngụy, liền đố kỵ với tài của Tôn Tẫn mà lừa gạt ông đến nước Ngụy rồi vu tội cho, khiến Tôn Tẫn bị chặt xương đầu gối (tẫn hình).Chữ Tẫn trong tên của ông xuất phát từ hình phạt này mà ra. Sau này ông được sứ giả nước Tề đưa về Tề Quốc. Tướng Tề là Điền Kỵ phục tài của Tôn Tẫn nên đã tâu với Tề Uy Vương phong ông làm thầy. Thời ấy, Tề Uy Vương đang tranh chấp cùng Ngụy nên muốn thu nhận hiền tài, coi trọng tài năng quân sự của Tôn Tẫn mà thu nhận ông làm quân sự. "Tôn Tẫn binh pháp" của ông là kế thừa tư tưởng quân sự của Tôn Vũ.

9. Trương Lương

Trương Lương(250 - 186 TCN), tự là Tử Phòng, là mưu thần của Hán Cao Tổ Lưu Bang, là nhà quân sự, chính trị kiệt xuất thời Tần mạt, Hán sơ kỳ. Ông là người có công lớn trong khai quốc Hán Vương triều. Trương Lương được xưng là một trong ba người tài giỏi xuất chúng thời đầu nhà Hán (Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà).

Do có công lao trong chiến tranh Hán - Sở, Trương Lương được Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ) hết sức kính trọng và đánh giá: ""Bàn định mưu lược trong màn trướng, quyết định thắng lợi ngoài ngàn dặm, ta không bằng Trương Lương" và cho ông được chọn lấy một vùng có ba vạn hộ ở đất Tề để phong, nhưng Trương Lương từ tạ, chỉ xin nhận phong ở đất Lưu - một vùng nhỏ hẹp hơn nhiều là nơi mà Trương Lương gặp Lưu Bang ngày trước. Hán Cao Tổ liền phong ông là Lưu hầu.

*

Tài năng của Trương Lương trong việc phò tá Lưu Bang dựng nên nghiệp nhà Hán đã tỏ rõ ông có tầm nhìn chính trị xa rộng, năng lực phân tích tâm lý tinh tế, nhãn quan chiến lược sắc sảo và tài phân tích, thu phục lòng người khôn khéo.

Những năm cuối đời, Trương Lương sống như một ẩn sĩ. Khi viết Sử ký, nhà sử học nổi tiếng Tư Mã Thiên đã xếp những câu chuyện về ông vào phần Thế gia là phần dành cho những nước chư hầu, những người có địa vị lớn trong giới quý tộc, những nhân vật nổi tiếng như Trần Thiệp (tức Trần Thắng) hay Khổng Tử, trong khi chỉ xếp truyện về Hàn Tín vào phần Liệt truyện (những người hoặc sự kiện kém quan trọng hơn.

10. Vương Mãnh

*

Vương Mãnh(325 - 375),tên chữ là Cảnh Lược, người Bắc Hải thời Đông Tấn. Ông là nhà chính trị, nhà quân sự nổi danh của thời kỳ Thập lục quốc, thừa tướng của nước Tiền Tần, đại tướng quân, phụ tá Phù Kiên bình định thiên hạ, thống nhất phương bắc. Thuở nhỏ, Vương Mãnh sống trong cảnh nghèo khó nhưng yêu thích học tập, đọc sách binh pháp. Ông là người cẩn trọng, khí độ bất phàm, không câu nệ tiểu tiết, cũng hiếm khi hòa hợp với người khác, ít kết giao nên bị các học giả thời ấy khinh thường. Tuy nhiên, Vương Mãnh không vì thế mà cảm thấy buồn bã.

11. Triệu Phổ

*

Triệu Phổ(922 - 992), tự là Tắc Bình, là nhà chính trị kiệt xuất thời đầu Bắc Tống và cũng là mưu sĩ nổi danh trong lịch sử Trung Hoa. Triệu Phổ 3 lần làm tướng, nổi danh 1 triều, làm chính trị 50 năm, thọ 71 tuổi. Triệu Phổ ít đọc sách nhưng lại túc trí đa mưu. Ông chỉ có quyển "Bán bộ Luận ngữ trị thiên hạ".

12. Lưu Cơ

Lưu Cơ tự là Bá Ôn, sinh năm 1311 tại thôn Dương Võ, huyện Thanh Điền. Ông là nhà mưu lược quân sự kiệt xuất cuối nhà Nguyên đầu nhà Minh. Ông vừa là nhà chính trị, tác gia và nhà tư tưởng, thông kinh sử hiểu thiên văn, tinh binh pháp. Ông là người Hán và là khai quốc công thần triều Minh.

*

Lưu Bá Ôn là công thần khai quốc của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông sinh ra trong một gia đình Nho học từng có truyền thống chiến đấu dũng cảm chống lại quân xâm lược Nguyên Mông trước đây. Nhờ chăm chỉ, đam mê đọc sách nên ông sớm làu thông kinh sử, văn chương, binh pháp và thiên văn. Năm Nguyên Thống thứ nhất đời Nguyên Thuận Đế (1333), ông thi và đỗ tiến sĩ, rồi được bổ làm quan, nhưng vì bị chèn ép, chỉ trích nên ông bỏ về ở ẩn năm 1360.

Từ sau khi trở thành mưu sĩ tài ba của Chu Nguyên Chương, ông đã giúp Chu Nguyên Chương lần lượt đánh bại các tập đoàn quân phiệt khác như Trần Hữu Lượng và Trương Sĩ Thành, nhiều lần biến nguy thành an. Các chiến thắng quan trọng ở thành Thái Bình, An Khánh, Giang Châu, hồ Bà Dương chống Trần Hữu Lượng, ở Kiến Đức chống lại Trương Sĩ Thành cũng như việc quy hàng của Phương Quốc Trân và nhiều thế lực địa phương khác đều do Lưu Bá Ôn bày mưu tính kế. Đặc biệt tại hồ Bà Dương, ông cùng với Chu Nguyên Chương trực tiếp chỉ huy cuộc chiến và đã một lần cứu thoát Chu Nguyên Chương khỏi bị đạn pháo của quân địch bắn trúng.

Xem thêm: 21 Bài Tập Gập Bụng Tại Nhà Dễ Tập Đánh Tan Mỡ Bụng Hiệu Quả

Nếu du khách là người có niềm đam mê với văn hóa, lịch sử của đất nước Trung Hoa thì hãy đặt cho mình một tourdu lịch Trung QuốccủaViet Viet Tourismnhé! Chắc chắn du khách sẽ có được những sự hiểu biết thú vị khi đặt chân đến vùng đất rộng lớn này.