This entry was posted on Tháng Ba 6, 2021, in Lịch sử thế giới phương Tây and tagged ba tư, hải chiến, hy lạp, Lạc Vũ Thái Bình, Salamis, Themistocles, Xerxes. Bookmark the permalink.1 bình luận

*

Lạc Vũ Thái Bình


Lưỡng Hà là một trong những cái nôi văn minh của nhân loại, nó chính là nơi đầu tiên trên lục địa Á-Âu con người sống định cư và thực hiện sản xuất lương thực. Chính điều đó, cộng với việc nằm ngay trên ngã tư những tuyến đường di trú lớn của các tộc người, khiến ngay từ rất sớm Lưỡng Hà đã trở thành đấu trường tranh bá của thế giới cổ đại, mà các đấu thủ đến từ chính Lưỡng Hà cùng các vùng đất lân cận của nó như cao nguyên Anatolia, đồng bằng châu thổ sông Nile, đồng bằng ven biển Levant và vùng đồi núi phía đông dãy Zagros. Sau hàng trăm năm chiến loạn, vào các thập niên cuối thế kỉ 6 BC, toàn bộ những khu vực kể trên đã được Cyrus đại đế và hai hoàng đế kế vị là Cambyses và Darius thống nhất dưới quyền lực của đế chế Ba Tư. Vào những năm đầu thế kỷ thứ 5 BC, Đông và Tây đã gặp nhau, đối diện qua biển Aegean, và gần như ngay lập tức, đế chế Ba Tư, chúa tể toàn Đông Phương, muốn các thị quốc trên bán đảo Hy Lạp phải thần phục phủ việt hoàng triều Achaemenid. Nhưng con dân của bán đảo Hy Lạp cũng đâu có vừa, họ toàn những hạng vừa cứng cổ cứng đầu lại vừa có mỏ có sừng, lâu nay vốn đã quen không vua cũng chẳng chúa, ”dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Từ đó, hai nửa thế giới lao vào nhau trong cuộc chiến một mất một còn trời long đất lở…


1.NHỮNG TRẬN CHIẾN KHAI MÀO

Trong thế kỉ thứ 7 BC, thông qua hệ thống quân sự mạnh mẽ và hiệu quả đến kinh người của mình, Sparta đã trở thành một thế lực không ai có thể thách thức ở miền nam Hy Lạp. Chỉ nhờ vào một thể thức thay đổi các liên minh mà các đối thủ chính của người Sparta mới kềm chế được họ mà thôi. Vào năm 510 BC, xung đột leo thang khi Sparta muốn can thiệp trực tiếp nhằm cản trở nền dân chủ Athens, điều chắc chắn sẽ mở đầu cho một cuộc tranh chấp kéo dài, nhưng ngay lúc đó, mối nguy to lớn đến từ phía đông đã đẩy hai thành bang hùng mạnh nhất Hy Lạp vào thế liên minh với nhau.

Bạn đang xem: Top 10 phim thần thoại hy lạp kinh điển hay nhất mọi thời đại

Các thành bang Hy Lạp tại Ionia, miền tây Anatolia, đã buộc phải chấp nhận thần phục ngoài mặt đối với đế chế Ba Tư, sau khi Cyrus đại đế vào năm 547BC chinh phục được Lydia, nước trước đó kiểm soát vùng này. Năm 499BC, Aristagoras vua thành Miletus đến Hy Lạp tìm đồng minh cùng ông nổi dậy chống Ba Tư. Athens và Eretria đã gửi quân đến. Quân Hy Lạp đánh chiếm và thiêu rụi Sardis năm 498BC. Sau đó, người Ionia mất dần đất trước các cuộc phản công của Ba Tư từ năm 497BC. Sự sụp đổ của Miletus và cái chết của Aristagoras làm suy yếu liên minh chống Ba Tư, và sau thất bại nặng nề của hải quân Hy Lạp trong trận Lade, lực lượng nổi dậy của Ionia hoàn toàn tan rã.

Cây muốn lặng nhưng gió chẳng ngừng, năm 492 BC, đế chế Ba tư xua hai đạo quân thủy bộ tiến vào Âu châu. Chiến dịch xâm lăng Hy Lạp lần đầu tiên này thất bại thảm hại, vì đại hạm đội Ba Tư bị bão tố đánh tan tành ở vùng biển nằm giữa mũi Athos và đảo Thasos, dù cánh quân bộ của tướng Mardonius đã khuất phục được Thrace và Macedonia.

Năm 490 BC, hoàng đế Ba Tư Darius phái một hạm đội gồm 600 chiến thuyền trieres, dưới sự chỉ huy của đô đốc Datis, tiến đánh Hy Lạp lần thứ hai. Theo Herodotus, vào thời gian đó, thuyền trieres ba tầng chèo đã được hải quân các nơi sử dụng rộng rãi ở Địa Trung Hải, nó thường mang theo được một hải đoàn khoảng 200 người, gồm 170 tay chèo và 30 binh sĩ, tức là hạm đội Ba Tư có quân số khoảng tầm 120.000 người. Hạm đội Ba Tư xuất phát từ Samos, đi xuyên qua biển Aegea, đánh phá các đảo Naxos, Delos và Euboia rồi đổ bộ lên bờ biển phía tây của bán đảo Attica, tại cánh đồng Marathon. Được các đồng minh Plataea đến tham chiến, người Athens tức khắc xua quân ra ngăn cản quân Ba Tư tiến sâu vào đất liền đồng thời gửi lời kêu gọi khẩn cấp đến Sparta. Người Sparta trả lời rằng họ sẽ đến ngay khi hoàn thành một buổi lễ tôn giáo mừng mặt trăng thường niên, nhưng khi người Sparta tới nơi xảy ra giao tranh thì trận đánh Marathon đã kết thúc.

Về phía quân Ba Tư, trận đánh có sự tham gia của khoảng 24.000 bộ binh và 1.000 kị binh, dưới sự chỉ huy của đô đốc Datis và tướng Artaphernes; về phía Hy Lạp là khoảng 10.000 bộ binh người Athens và Plataea, dưới sự chỉ huy của hai tướng Callimachus và Miltiades. Người Athens xuất quân với ý định chiếm lĩnh vị trí góc đông nam của đồng bằng Marathon để chắn con đường dẫn đến Athens. Sau vài ngày trì hoãn, quân Ba Tư đã khai chiến. Quân Hy Lạp kéo dài phòng tuyến của họ ra bằng cách dàn quân mỏng ở trung tâm để tránh bị đánh bọc sườn. Chiến đấu đầy dữ tợn, trung quân bị dàn mỏng của Hy Lạp với đội hình phalanx danh tiếng vẫn đứng vững trước sức ép của quân Ba Tư trong khi hai cánh của họ đập tan hai cánh của đối thủ, và thay vì đuổi theo, họ lại quay vào dồn ép trung quân Ba Tư từ cả hai bên sườn, đánh tan nát lực lượng này rồi đuổi theo quân thù đến tận chiến thuyền. Cuộc truy đuổi đã khiến rất nhiều kẻ thù bị rơi vào đầm lầy nằm ở phía bắc vùng đồng bằng Marathon. Ngày hôm đó, một mạng Hy Lạp đổi được bảy mạng Ba Tư, và đã có tất cả khoảng 6400 người Ba Tư gục ngã trước các hàng quân Hy Lạp. Bại quân Ba Tư thoát thân lên thuyền, định đi vòng qua mũi Sounion để đánh úp Athens, nhưng khi họ tới nơi thì người Athens đã vượt cái khoảng cách trứ danh 42,195km giữa Marathon và Athens, hàng hàng lớp lớp trên bãi biển, đứng chờ họ. Thấy không còn hi vọng gì, quân Ba Tư đành nhổ neo quay thuyền trở về châu Á. Người Sparta chua chát tự trách mình vì đã không có mặt kịp thời tại Marathon, càng cay cú hơn nữa vì tất cả vinh quang chiến thắng đã về tay người Athens.

Trước khi đến với các diễn tiến lịch sử liên quan đến cuộc viễn chinh thứ ba của đế chế Ba Tư nhằm thôn tính Hy Lạp, ta thử ngẫm một chút về việc tại sao đế chế Ba Tư lại xâm chiếm Hy Lạp? Tại sao đế chế Ba Tư bành trướng về hướng Hy Lạp chứ không phải là những hướng khác? Hẳn nhiên, cơn cớ của cuộc can qua là vụ nổi loạn của kiều dân Hy Lạp ở dải đất Ionia và thành Sardis những năm 499BC-494BC, nhưng một đế chế đang hồi sung sức như Ba Tư, đáng ra nó phải bành trướng về tất cả mọi hướng mới phải chứ? Phải chăng ở bán đảo Hy Lạp có cái gì đó thu hút ánh nhìn của đế chế hùng mạnh này hơn các hướng bành trướng khác? Thực tế thì Hy Lạp được chọn do lẽ ở các hướng bành trướng khác, hoặc là do đế chế đã gặp phải những chướng ngại thiên nhiên khó lòng vượt qua, hoặc do đế chế khi cố gắng mở rộng về các hướng đó đã bị các dân tộc bản địa đả bại đầy đau đớn.

Biên giới đông bắc, nơi cư trú của những tộc người du mục Trung Á, đã chứng kiến cái chết của Cyrus đại đế, vị hoàng đế khai lập vương triều Achaemenid, khi ông cố gắng khuất phục người Massagetai năm 530BC. Sau khi hoàng đế Cambyses, con của Cyrus đại đế chinh phục được Ai Cập năm 525BC, ông đã cố gắng dấn tiếp xuống phía nam, nhưng đã bị người Ethiopia đánh cho tơi bời. Còn ở phía tây của Ai Cập là sa mạc Lybia rộng lớn mà sau lưng nó chỉ có một vài thuộc địa của Phoenicia mới thành lập ở nơi bây giờ là Tunisia, nói thẳng ra là chẳng bỏ để cất đại quân chinh phạt. Về hướng đông nam, tiểu lục địa Ấn Độ, với ba tầng chướng ngại là dãy Hindu Kush-Balushitan, Ấn Hà và rừng rậm nhiệt đới cùng những chủ nhân cũng đông đảo và văn minh không kém gì đế chế, đã là một mục tiêu được chứng tỏ là không thể nuốt trôi. Bản thân Darius đại đế, người kế ngôi hoàng đế Cambyses không con cái sau một cuộc lựa chọn kì khôi giữa các quý tộc Ba Tư, cũng đã suýt mất mạng khi cất quân băng qua eo Hellespont và sông Danube để chinh phạt các dân tộc Scythia ở vùng đất hiện nay là Nam Ucraina vào năm 513BC. Vậy thì, Hy Lạp đơn giản là đối thủ tiếp theo được chọn để chinh phục. Và nếu như dù Cyrus đại đế đã đưa đế chế Ba Tư đến bờ đông Aegean từ tận năm 547BC, tức là hơn 50 năm trước đó, mà chỉ sau khi không thể bành trướng thành công ở những nơi khác đế chế Ba Tư mới để mắt đến Hy Lạp, thì nhiều khả năng, trong mắt sư tử Ba Tư, Hy Lạp cũng chẳng phải là con mồi béo mập gì cho cam.

Trở lại với câu chuyện, thời đó, người Athens có một mỏ bạc khá lớn ở Laurium được những tá điền cha truyền con nối khai thác và nộp lại phần lợi tức cố định cho nhà nước. Vào các năm 484-483BC, lợi tức lớn bất thường, lên đến hơn 100 talent (1 talent khoảng 30kg). Themistocles là người duy nhất có can đảm đứng ra trước dân chúng để đề nghị rằng lợi tức từ những mỏ bạc tại Laurium, mà người Athens có thói quen ăn chia với nhau, nên được dành để tài trợ việc đóng chiến thuyền nhằm đối phó với đảo Aegina, thành bang có hải đội lớn nhất Hy Lạp và đang cạnh tranh trực tiếp với Athens. Không cần làm kinh động người Athens về mối đe dọa Ba Tư vốn đang ở xa vì không mấy người nghiêm túc tin là Ba Tư sẽ lại đến tấn công, ông chỉ phải tranh thủ thái độ thù địch và ghen tị của mọi người đối với dân đảo Aegina để khiến họ tán thành chính sách chi tiêu này. Kết quả là người Athens đã đóng được thêm hơn 100 chiến thuyền trieres bằng tiền huy động được, và thực tế là những chiến thuyền này cuối cùng đã đóng vai trò quyết định trong cuộc giao tranh với hải quân Ba Tư tại Salamis.

2.HAI QUAN ĐIỂM VỀ QUYỀN UY TỐI THƯỢNG

Năm 486BC, Darius đại đế băng hà tại Sousa, sau khi đã chỉ định Xerxes, con trai của ông với hoàng hậu Atossa, người con gái của Cyrus đại đế, làm người kế vị. Một năm sau khi đè bẹp cuộc nổi loạn của Ai Cập năm 485BC, hoàng đế Xerxes quyết định huy động một lực lượng thủy bộ khổng lồ với quyết tâm xử lý một lần và mãi mãi đám dân ngoan cố ở bán đảo Hy Lạp.

Đầu tiên, hoàng đế Xerxes cho gửi sứ giả đến lôi kéo Carthage và các thành bang Hy Lạp ở những lãnh thổ hải ngoại phía tây Địa Trung Hải, đặc biệt là Syracusa, để đảm bảo kiều dân Hy Lạp sẽ không giúp đỡ các thành bang ở cố quốc. Sau đó, hoàng đế Xerxes ra lệnh cho toàn châu Á thực hiện những ý tưởng ngông cuồng tột cùng. Đầu tiên, hoàng đế Xerxes quyết biến biển thành đất liền khi cho bắt một cây cầu phao trên các con thuyền nằm vắt ngang qua eo Hellespont để nối liền Âu-Á, rồi ông lại quyết biến đất liền thành biển khi cho đào một con kênh xuyên qua bán đảo Khersonesos để hạm đội Ba Tư khỏi phải đi vòng qua mũi Athos, là nơi mà một cơn bão đã hủy diệt hạm đội Ba Tư 12 năm trước đó. Tthứ đến, từ Ethiopia cho đến Ấn Độ, một đạo quân khổng lồ từ tất cả các dân tộc trong toàn thể đế chế được lệnh hội sư về Hellespont, tiếp đó, các kho lương thực và đồ hậu cần to lớn được thiết lập ở Thrace và Macedonia dọc theo đường tiến quân, dù theo lời Phụ Chính đại thần Artabanus, để cung cấp cho một lượng người tầm cỡ như đại quân Ba Tư thì nó chẳng thấm vào đâu. Nói theo ngôn ngữ của chính trị hiện đại, thì hoàng đế Xerxes là một con nhím, chỉ chăm chăm làm điều mình muốn mà không ước lượng được khoảng cách giữa tham vọng và các nguồn lực thực tế mà bản thân nắm giữ.

Khi eo biển Hellespont nổi lên một cơn bão làm đắm đoàn thuyền mà hoàng đế Xerxes đã cho xếp làm cầu phao vượt eo biển, ông đã thể hiện một dấu hiệu loạn thần kinh rõ ràng khi sai người đánh 300 roi xuống biển để trừng phạt nó cùng nói những lời như để ngăm đe như sau: “Hỡi thứ nước đắng ngắt, chủ nhân của ngươi giáng xuống ngươi hình phạt này vì ngươi đã gây chuyện sai trái với chủ nhân ngươi. Hoàng đế Xerxes sẽ vượt qua người, dù ngươi có muốn hay không”. Sự kiện đó cho thấy rằng nếu một người do ngẫu nhiên, mà phần nhiều là do dòng dõi, được ngồi vào vị trí quyền lực gần như tuyệt đối, được hầu hết mọi người răm rắp tuân theo mọi ý tưởng và lệnh truyền của hắn, thì dần dà, với việc thấy quen mui với chuyện được tuân phục, sẽ đến lúc hắn ta cho là sự tuân phục đó là một điều đương nhiên xuất phát từ quyền lực tối thượng hắn đang nắm giữ. Để rồi hắn sẽ đi đến chỗ tự cho là sự tuân phục đó đến từ sự công nhận của mọi người đối với tính đúng đắn trong các ý tưởng và lệnh truyền hắn ban ra. Đó là nẻo đường mà tất cả các bạo chúa đều đi qua, và nẻo đường đó, dẫn thẳng tới sự diệt vong. Sử gia Dalberg-Acton khi nói: ‘Quyền lực có khuynh hướng sụp đổ’, chính là nói ý này.

Sau khi vượt qua Hellespont, hoàng đế Xerxes kiểm binh đội đại quân Ba Tư bằng cách xây một bức tường thấp bao quanh một vạn quân, rồi cho lần lượt từng binh đội bước vào. Trước sau đã có tất cả 170 lần khoảng tường thấp đó được lấp đầy, tức là quân lực Ba Tư ở đó có khoảng 170 vạn bộ binh, chưa kể hải đội và lượng quân chư hầu bên kia eo biển chưa đến. Cao hứng, hoàng đế Xerxes đã hỏi một cựu hoàng Sparta cùng đi với ông là liệu quân Hy Lạp có thực sự chiến đấu chống lại quân Ba Tư hay không:

-“Này Demaratus, trẫm sẽ hỏi khanh những gì trẫm muốn biết. Khanh là một người Hy Lạp và là một người xuất thân từ một thành bang không phải nhỏ hay yếu. Vậy bây giờ hãy cho trẫm biết, liệu dân Hy Lạp có nổi dậy để chống lại trẫm không?”

Demaratus đã trả lời:

-“Tâu bệ hạ, liệu thần sẽ tâu lên bệ hạ sự thực hay chỉ trình bày những gì bệ hạ muốn?”

Hoàng đế đã ra lệnh cho ông ta nói sự thật, bằng cách nói rằng ngài vẫn luôn tôn trọng ông cho dù ông có nói gì đi nữa. Demaratus bèn tâu rằng:

-“Tâu bệ hạ, thần không nói đến toàn dân Hy Lạp mà chỉ nói về dân Sparta thôi. Trước hết, thân xin tâu rằng họ sẽ không bao giờ chấp nhận những điều kiện bệ hạ bắt Hy Lạp phải chịu; thứ nữa, họ sẽ chiến đấu chống lại bệ hạ trên chiến trường cho dù tất cả các dân Hy Lạp khác có đứng về phía bệ hạ.”

Xerxes phán:

-“Này Demaratus, hãy xem xét điều này một cách hết sức hợp lý, nếu như một ngàn hay một vạn hay năm vạn người đang sống tự do và không bị một ông chủ duy nhất nào thống trị, thì tại sao họ lại phải vùng lên chống lại một quân đội như quân đội của trẫm? Nếu như họ được một vị vua duy nhất như trẫm cai trị, giống như thần dân của trẫm, trẫm nghĩ rằng có thể vì sợ hãi, họ sẽ tỏ ra gan dạ hơn bình thường, và khi bị xua vào chiến trường bằng một cây roi, họ sẽ tiến lên chống lại một lực lượng hùng hậu hơn. Những nếu được tự do, họ sẽ không chịu làm gì cả.”

Deramatus nói:

-“Thưa bệ hạ, ngay từ đầu thần đã biết rằng nếu thần nói sự thực thì bệ hạ sẽ không ưa gì lời thần tâu trình, nhưng vì bệ hạ đã ra lệnh nên thần mới nói. Thần đã trình bày với bệ hạ về người Sparta, họ là những người tự do, nhưng không phải hoàn toàn tự do. Họ có một ông chủ tên là Luật Pháp mà họ được dạy từ bé là phải khiếp sợ còn hơn cả quân lính của bệ hạ sợ bệ hạ. và mệnh lệnh của ông chủ này trước sau như một là: không được trốn chạy trước bất kì quân đội nào, cho dù quân đội ấy có hùng hậu đến đâu, mà phải giữ nguyên hàng ngũ để chinh phạt quân thù, hay là chết. Nhưng, tâu bệ hạ, xin thánh ý của bệ hạ được thực hiện tốt đẹp.”

Với hoàng đế Xerxes, ông không nghĩ ra được có một quyền uy tối thượng nào khác có tồn tại trên đời ngoài quyền uy áp chế chư dân trong đế chế Ba Tư mà chính ông đang nắm giữ, nhưng Deramatus lại kể cho Xerxes về một quyền uy tối thượng khác, tên là Pháp Luật, mà đám dân Hy Lạp, đặc biệt là người Sparta, dựa vào đó để dám đứng lên chống lại ông. Quyền uy tối thượng thuộc về kẻ mạnh nhất hay thuộc về luật của đa số, đó chính là song đề nan giải căn bản của cuộc chiến Hy Lạp – Ba Tư. Và khoảng hơn 300 năm sau, tại ngôi thành Modin nhỏ bé miền núi xứ Judea, khi bị sứ giả vương triều Seleucid ép phải từ bỏ đức tin vào Thiên Chúa và lối sống của người Do Thái, tư tế Mattathias đã thay mặt toàn thể gia tộc đáp lại như sau:

-“ Cho dù tất cả các dân tộc trong vương quốc của vua có nghe lời vua và ai cũng chối bỏ việc thờ phượng của cha ông mình và tuân theo lệnh vua, thì tôi, các con tôi và anh em tôi, chúng tôi vẫn trung thành với Giao Ước của cha ông chúng tôi. Không đời nào chúng tôi bỏ Lề Luật và các tập tục! Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái.”

Tức là, ngoài hai thứ quyền uy áp chế của cá nhân và quyền uy của luật do đa số, còn có những người sống dựa vào quyền uy tối thượng phát xuất từ những điều Thiên Chúa đã phán truyền và sự trung thành của con người với Giao Ước họ đã ký kết với Thiên Chúa. Chúng ta sẽ bàn về chuyện này trong một lúc khác, còn bây giờ chúng ta hãy trở lại với cuộc hành quân về phía nam của đại quân Ba Tư trên phần đất Âu Châu.

3.BƯỚC TIẾN VŨ BÃO CỦA ĐẠI QUÂN BA TƯ

Hoàng đế Xerxes dẫn đại quân Ba Tư băng qua Hellespont vào khoảng tháng 5 năm 480BC. Đạo quân bộ hành quân qua Thrace và Macedonia rồi trên đường xuôi xuống phía nam hợp với các đạo quân chư hầu. Hạm đội Ba Tư tiến lên song song với đạo quân bộ, các bờ một khoảng cách không xa. Toàn thể đại quân Ba tư, bao gồm cả bộ binh, kỵ binh, hạm đội của người Ba Tư hợp với quân lực các chư hầu, cùng với tất cả đội ngũ phu phen tạp dịch, theo Herodotus, là một con số rợn người: hơn năm triệu. Toàn thể Hy Lạp rúng động!

Các sứ giả của Ba Tư được cử đến tất cả các thành bang Hy Lạp để đòi ‘Đất và Nước’, một dấu hiệu thần phục trong ngôn ngữ biểu tượng của người Ba Tư. Bởi lẽ Sparta và Athens là hai tên chống đối đầu sỏ trong mắt người Ba Tư vì không những đã từ chối quy phục mà còn sỉ nhục và giết các sứ giả mười năm trước, nên không hề có đoàn sứ giả đòi ‘Đất và Nước’ nào được gửi tới họ. Thông điệp đã quá rõ ràng.

Động thái đầu tiên của người Athens là ra một đạo luật, do đô đốc Themistocles khởi xướng, cho phép bất kỳ ai bị trục xuất trước đó đều được trở về để cùng quê hương dốc sức vào công cuộc cứu nguy Hy Lạp. Đạo luật này cốt yếu nhắm vào trường hợp cựu quan án Aristides, người trước đó đã bị dân Athens kết án lưu đày vì mù quáng nghe theo lời xúi giục của chính Themistocles. Người Athens lo ngại ông sẽ vì giận họ mà có thể chạy sang hàng ngũ người Ba Tư và xúi giục nhiều người làm theo ông, nhưng quả là ‘lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử’, họ đã hiểu sai trầm trọng về ông. Aristides cấp tốc quay về với cái quê hương đã vô cớ ruồng bỏ ông, về với Themistocles, cái người trước đó đã luôn kình địch và chống đối ông, và ông làm điều đó với tất cả sự chân thành đáng ngưỡng mộ nơi con người ông. Vậy là tuy cùng đồng ý với Ngô Quyền là xử lý ‘thù trong trước giặt ngoài sau’, nhưng cách làm của người Athens cho thấy rằng không nhất thiết để yên được nội trị là cứ phải huynh đệ một nhà kéo nhau ra trận tiền mà tương tàn hay là dùng cách cho thích khách ám sát hết những kẻ đối lập và kể cả những kẻ có khả năng sẽ chống đối. Cái nhân và cái trí của người cầm quyền chính là ở chỗ đó.

Đáp lại việc động binh của Ba Tư, người Athens và người Sparta gửi các sứ giả tới các thành bang trong thế giới Hy Lạp thúc giục họ gia nhập liên minh quân sự chống lại Ba Tư. Nhưng lần lượt các thành bang và thuộc địa hải ngoại như Aiolia, Crete, Corkyra, Syracusa, đều từ chối gửi quân, thậm chí hai thành bang hùng mạnh trên bán đảo Peloponnese là Argos và Achaea cũng không đáp lại lời hiệu triệu. Người Hy Lạp cũng gửi hai điệp viên về phía bắc để thu thập tin tức về lực lượng và chuyển quân của Ba Tư, hai người này bị bắt, nhưng Xerxes cho thả họ ra và cho người dẫn họ đi xem quy mô tất cả các đạo quân và kho hậu cần khổng lồ của Ba Tư, với dự tính cũng không phải là sai lầm là mong rằng thông tin họ mang về sẽ khiến người Hy Lạp choáng ngợp và chịu quy phục.

Đô đốc Themistocles, ngay khi tiếp nhận quyền thống lĩnh quân lực Athens, bước đầu tiên ông làm là yêu cầu các công dân cung cấp thủy thủ cho các chiến thuyền và giục họ rời khỏi thành phố để đối mặt với quân Ba Tư trên vùng biển cách Hy Lạp càng xa càng tốt. Nhưng kế hoạch này bị cực lực phản đối, vì vậy ông hợp lực với quân Sparta và đưa một đạo quân lớn đế thung lũng Tempe, nơi họ dự định làm thành một phòng tuyến đầu tiên, vì lúc bấy giờ không ai biết là Thessalia sắp tuyên bố ủng hộ Xerxes. Tuy nhiên, sau một thời gian ngắn, quân đội đã rút khỏi vị trí này mà không đạt được bất kỳ thành quả nào, vì ngay lúc đó người Thessalia đã chạy sang hàng ngũ kẻ thù cùng với tất cả người Hy Lạp từ Thessalia cho đến mãi tận Boeotia. Kỵ binh Thân hữu Macedonia và Kỵ binh Thessalia sau này sẽ là hai cánh kiêu hùng của đạo quân bách chiến bách thắng của Alexander Đại đế, nhưng đó là chuyện của 150 năm sau, còn lúc đó, sự buông kiếm của họ đã đẩy các thành bang Hy Lạp còn lại ở phía nam rơi vào tình thế rất ngặt nghèo.

Lúc này, người Athens rút cuộc đã nghe theo lời khuyên của đô đốc Themistocles tổ chức các phòng tuyến từ xa, và đã cử một hải đội hỗn hợp 271 chiến thuyền trieres đến trấn giữ tại eo biển Artemisium. Chính tại đây, những người Hy Lạp còn lại đã đề nghị Eurybiades, một người Sparta lên làm tổng tư lệnh, nhưng người Athens đã từ chối phụng mệnh người khác, vì họ cho là họ đã cung cấp chiến thuyền hơn tất cả các đồng minh cộng lại. Themistocles lập tức nhận ra mối nguy của sự bất hòa này, vì vậy ông đã trao quyền chỉ huy lại cho Eurybiades và vỗ về lòng kiêu hãnh của người Athens bằng cách hứa là nếu họ tỏ ra dũng cảm trong chiến trận, ông sẽ bảo đảm rằng những người Hy Lạp còn lại về sau sẽ chấp nhận sự lãnh đạo của họ, và lịch sử đã cho thấy mọi chuyện đã xảy ra đúng như vậy. Vì hành động này mà Themistocles nói chung được coi là người có công trực tiếp nhất trong việc cứu vãn Hy Lạp, đồng thời đem lại cho người Athens danh tiếng là dũng cảm hơn kẻ thù và khôn ngoan hơn các đồng minh.

4.THIÊN NHÂN ĐỊCH LEONIDAS VÀ TRẬN HUYẾT CHIẾN QUAN ẢI THERMOPYLAE

Cách Artemisium nơi hải đội 271 chiến thuyền Hy Lạp trú đóng không xa là hẻm núi Thermopylae với chỗ thắt cổ chai hẹp tới mức chỉ một cỗ xe đi lọt. Hoàng đế Xerxes đã cho biến núi thành biển và biến biển thành đất bằng, nhưng đơn giản là có những hiểm địa mà đoàn công binh của ông cũng không thể làm gì khác được. Trấn giữ ở quan ải Thermopylae, là 300 chiến binh Sparta, mà thủ lĩnh là Leonidas, con trai Anaxandridas, vua Sparta, cùng với khoảng 4000 quân đồng minh Hy Lạp. Đối đầu với hai cánh quân thủy bộ Hy Lạp là một lực lượng, mà nếu ta bám sát theo từng lời của Herodotus, là khoảng 2.000.000 bộ binh, 100.000 kỵ binh, 1327 thuyền trieres và 3000 thuyền nhỏ pentekonteroi (chứa được 80 người).

Một chiến binh Sparta được trang bị giáp trụ và vũ khí vào hạng tối ưu so với trang bị chiến cụ thời bấy giờ. Đầu tiên, anh ta sẽ có một mũ trụ bộ binh kiểu Corinth với phần bảo vệ hai bên má và gáy, cùng với một đầu mút nhỏ bảo vệ mũi, chỉ chừa đôi mắt và phần khe dưới của khuôn mặt lộ ra bên ngoài. Phần ngực và lưng được bọc trong hai tấm giáp đồng điếu đúc liền khối là hung giáp che ngực và bối giáp che lưng ghép lại với nhau bằng khớp, khoen và dây da. Phần cẳng tay cẳng chân của anh ta được bảo vệ bởi các tiểu giáp cũng làm bằng đồng điếu, còn phần đùi đã được che bằng tấm khiên ‘aspis’. Khiên aspis được phát minh vào khoảng thế kỉ thứ 7 BC có hình tròn, đường kính vào khoảng 76-91cm, có hình dạng uốn cong vào trong giúp bảo vệ cạnh sườn binh sĩ; nó có lõi làm bằng gỗ và được bọc ngoài bằng đồng, cùng một lớp da thuộc phía trong. Nặng khoảng tầm 8kg, trong đấu tay đôi, một người lính Sparta thức sức làm hỏng hoàn toàn bộ nhá của đối thủ chỉ bằng những đòn đấm một-hai đơn giản bằng khiên aspis. Khiên được cầm bằng cách luồn cánh tay trái qua băng đeo ‘porpax’ trung tâm, nắm phần tay cầm làm bằng dây thừng ‘antilabe’ ở gần phía vành ngoài, do đó một nửa khiên nghiêng về phía trái, khiến cho người lính hoplite phải trông cậy vào chiếc khiên của người bên phải để che chắn nửa cơ thể còn lại. Trong đội hình chiến đấu phalanx của người Hy Lạp, không cho phép chiến đấu bằng hành động chém ngang khi sử dụng kiếm; một thứ gì đó với lực đẩy mạnh mẽ sẽ phù hợp hơn. Bởi vậy mỗi chiến binh Sparta được trang bị một ngọn giáo ‘dory’ mạnh mẽ, với mũi giáo được rèn bằng sắt, cùng với nó là một đuôi giáo có mũi nhọn, làm đối trọng với mũi giáo, cả hai thứ được lắp vào cán gỗ dài từ 2 – 2,5m. Mũi giáo to và nặng của dory cung cấp một lực xuyên phá khủng khiếp qua giáp trụ và da thịt đối phương, còn đuôi giáo cũng có khá nhiều công dụng như việc các chiến binh Sparta có thể tạm dùng nó để chiến đấu khi mũi giáo bị gãy, hoặc có thể cắm nó xuống đất để tạo nên hàng rào chống kị binh đối phương hay dùng nó để kết liễu nhanh gọn bất kì đối thủ bị thương nào đang nằm dưới chân mà không cần phải xoay mũi giáo lại. Cuối cùng, mỗi chiến binh Sparta còn được trang bị một đoản đao ‘kopis’, với lưỡi chém cong và sống đao cùng phần lồi của cạnh sắc được thiết kế để thuận tiện cho việc xả đao từ trên xuống. Nhưng hiếm khi đối thủ phá được phương trận chiến đấu của người Sparta và chém gãy giáo để ép được một chiến binh Sparta dùng đến vũ khí cuối cùng này.

Đêm trước trận đánh, thiên nhiên đã đổ xuống đầu quân Ba Tư một trận bão kinh hồn táng đởm, mà người Hy Lạp cho là do thần linh bằng lòng tước sự kiêu hãnh của hoàng đế Xerxes, kẻ chỉ là một người phàm mà dám đòi làm chủ cả hai châu lục. Sấm dội vang trời, biển gào sóng thét, sáng ra, làm tan tành hơn 400 thuyền trieres của hạm đội Ba Tư neo đậu tại Sepias, nhưng đạo quân bộ, thì vẫn không hề hấn gì.

Trận Thermopylae diễn ra vào khoảng tháng 8 năm 480BC, và là một cú sốc với toàn thể quân đội Ba Tư. Những chiến binh Sparta võ nghệ siêu quần do được liên tục trui rèn từ thuở bé, lại thêm tinh thần quyết tử, đã chứng tỏ cho tất cả mọi người thấy rằng trên thế gian này, ‘người thì nhiều mà nam tử thì ít’. Sự dửng dưng trước kẻ thù do tự tin hoàn toàn vào năng lực chiến đấu của bản thân của người Sparta được thể hiện rõ nhất khi Dienekes, một trong 300 chiến binh, được một người Trakis trước trận đánh cho hay rằng khi quân Ba Tư bắn tên, chúng sẽ làm che khuất cả ánh mặt trời, Dienekes đã không hề lo ngại trước chuyện này, mà lại coi thường quân số Ba Tư. Ông nói rằng vị khách Trakis đã mang đến tin tốt lành, vì nếu quả thực tên của người Ba Tư có thể che khuất cả mặt trời, thì người Sparta sẽ được chiến đấu trong bóng râm, thế thôi.

Leonidas chia toàn quân ra làm hai tốp chiến đấu luân phiên. Phương trận hoàn hảo của quân Hy Lạp đã liên tục đẩy lùi tất cả các đợt xung phong của bộ binh và kỵ binh Ba Tư, kể cả đội quân thiện chiến nhất là ‘Bất tử quân’. Các chiến binh Sparta tung hoành giữa trận tiền như sư tử lao vào giữa bầy cáo. Ngày qua ngày, thịt xương vung vãi máu me ngập ngụa cùng hàng đống xác quân lính Ba Tư và các đồng minh chất cao mãi trước quan ải Thermopylae. Sau nhiều ngày chiến đấu ác liệt, tên Hy lạp phản bội là Ephialtes đã tiết lộ cho Xerxes còn đường mòn vòng qua hẻm núi Thermopylae. Leonidas biết cứ điểm không thể trụ vững được nữa, đã ra lệnh cho các đồng minh rút lui, để ông và những người Sparta chặn hậu. Toàn quân Sparta đã hi sinh anh dũng, chỉ trừ Aristodemos được giao về báo tin là sống sót, và anh sẽ là người hùng chói sáng của trận đánh quyết định ở Plataea diễn ra vào năm sau.

Kết quả trận Thermopylae, trước sau đã có 20.000 quân Ba Tư ngã gục, tức là trung bình cứ một mạng Sparta đổi 70 mạng Ba Tư. Ta hoàn toàn có thể thông cảm cho sự run sợ của hoàng đế Xerxes khi ông được biết, trên đường tới Sparta, quân Ba Tư còn phải vượt qua một nút thắt cổ chai khác là eo đất Corinth, cửa ngỏ bắt buộc phải đi qua nếu muốn vào bán đảo Peloponnese, mà chờ đợi ông ở đó, sẽ có ít nhất là 8000 chiến binh Sparta sát khí ngút trời!

Về trận hải chiến Artemisium, hải đội Hy Lạp dưới sự chỉ huy tài tình của Themistocles đã giao chiến 3 trận với hạm đội Ba Tư đông hơn gấp ba lần, tiêu diệt được 15 chiến thuyền địch, và xoay xở rút lui thành công với hầu như đầy đủ quân số. Trong khi đó, hạm đội Ba Tư đuổi theo lại bị một trận bão tại Aphetai đánh đắm hơn 200 chiến thuyền trieres. Những trận chiến diễn ra tại Artemisium với hạm đội Ba Tư đã không quyết định kết quả sau cùng của chiến tranh, nhưng kinh nghiệm có được từ chúng là vô giá với người Hy Lạp. Họ đã học hỏi được từ chính hành động đương đầu với hiểm nguy của mình rằng người giỏi đánh giáp lá cà và quyết tâm chiến đấu thì không sợ gì hết, từ số lượng thuyền, hình đầu người trang trí lòe loẹt ở mũi thuyền, tiếng hò reo khoác lác, đến những bài ca xung trận man rợ. Họ đơn giản là phải tỏ vẻ khinh miệt mấy chiêu trò gây rối trí đó, đương đầu trực diện với kẻ thù và chiến đấu đến cùng.

5.GIỮA MUÔN TRÙNG VÂY

Hải đội Hy Lạp rút lui về đảo Salamis, tại đó, họ được tăng cường thêm một số chiến thuyền từ Laconia, Aegina, Megara, Khalkis… Tổng số chiến thuyền trieres của Hy Lạp là 380, trong đó phần đóng góp của Athens là 180 chiếc. Quyền chỉ huy hạm đội vẫn thuộc về Eurybiades, người Sparta. Về phía Ba Tư, sau hai trận bão tại Sepias và Aphetai, cùng với thiệt hại trong trận Artemisium, hạm đội của họ giảm từ 1327 xuống còn khoảng hơn 700 chiến thuyền trieres, cộng thêm khoảng 2000 thuyền pentekonteroi.

Sau khi vượt qua Thermopylae, hoàng đế Xerxes đưa quân vào Phocis, đi đến đâu đốt phá đến đấy, kể cả ngôi đền Delphi linh thiêng cũng bị tấn công, nhưng người Hy Lạp vẫn án binh bất động. Sự thật là người Athens đã hối thúc họ gắng sức phòng thủ ở Boeotia và giữ lấy vùng Attica, như chính họ đã ra biển chiến đấu tại Artemisium để bảo vệ toàn cõi Hy Lạp, nhưng không ai chịu nghe họ, thay vì vậy, những đồng minh còn lại đã từ chối nhích nhân khỏi bán đảo Peloponnese. Họ nóng lòng muốn tập trung tất cả lực lượng về phía tây eo đất Corinth và bắt đầu xây dựng một bức trường thành chắn ngang Eo đất. Quả là cay đắng muôn phần cho người Athens, như lời Thánh vịnh gia trong Kinh Thánh đã nói: “Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con!”

Người Athens tức giận vì sự phản bội này, đồng thời cảm thấy thất vọng và buồn chán vì bị bỏ mặc cho số phận. Họ không thể nghiêm túc nghĩ tới việc giao chiến với một đạo quân hùng hậu đến thế, nhưng bấy giờ sự lựa chọn duy nhất còn lại với họ có vẻ rất khó chấp nhận, đó là từ bỏ thành phố và phó thác sự tồn vong của mình cho hải đội. Đa số cảm thấy họ không muốn chiến thắng với cái giá này, và rằng sự an toàn vô nghĩa với họ nếu nó đòi hỏi họ phải bỏ lại những đền thờ và mộ phần tổ tiên cho quân thù.

Khi đó, chính Cimon, người hùng của Hy Lạp trong những năm tháng phản công về sau, đã là người đầu tiên nêu gương trước công chúng. Ông đã vui vẻ dẫn đầu một đoàn quân lên tới Acropolis, tay cầm dây cương ngựa dâng lên nữ thần Athena, là dấu hiệu rằng điều mà thành phố cần vào lúc ấy không phải là lòng quả cảm mã thượng, mà là nhân lực để chiến đấu trên những hải đội. Sau khi dâng sợi dây cương, ông lấy một trong những tấm khiên đang treo quanh đền, thốt lên lời cầu nguyện với nữ thần, đoạn đi xuống biển, và nhờ hành động này mà nhiều đồng hương của ông bắt đầu lấy lại được khí thế.

Trước đó một thời gian, từ miệng nữ tư tế Pythia tại Delphi có tên là Aristonike, người Athens đã được nghe lời sấm truyền như sau:

Nếu yêu thích các phim thần thoại Hy Lạp cũng như dòng phim thần thoại, bạn đừng bỏ qua 11 bộ phim này!


*

Phim hay về thần thoại Hy Lạp bao gồm những phim nào? Trước tiên, mời bạn tìm hiểu về các vị thần trong thần thoại Hy Lạp. Tất cả được con người tưởng tượng ra nhằm lý giải những hiện tượng bí ẩn của thiên nhiên, cũng như thỏa mãn tâm tư, ước nguyện của con người. Trong đó, thần Zeus cùng với 2 người em của mình là Poseidon và Hades lần lượt thống trị trần gian, biển cả và địa ngục.

Mỗi vị thần có những đặc điểm khác nhau, cộng thêm những mối quan hệ phức tạp khiến họ có nhiều con cái cũng như kẻ thù.

Đỉnh thần linh Olympus khi được đưa lên phim không chỉ là cuộc chiến giữa các vị thần mà còn là cuộc chiến giữa người với người. Tiêu biểu là bộ phim Troy 2004 và Hercules 2014, hai bộ phim về con người trong thế giới khổng lồ của các thần linh.

1. Phim hay về thần thoại Hy Lạp: Người hùng thành Troy – Troy (2004)

Bộ phim sử thi quy tụ dàn sao nam hạng A bao gồm Brad Pitt, Eric Bana và Orlando Bloom với kinh phí lên tới 200 triệu USD. Phim xếp thứ 8 trong danh sách các phim có doanh thu cao nhất năm 2004.

*

Nội dung phim: Hoàng tử Paris của thành Troy đem lòng yêu vợ của vua Menelaus và dụ nàng theo mình về Troy. Điều này khiến vua Menelaus tức giận, bèn liên minh với vua xứ Mycenae tạo thành đội quân Hy Lạp hùng mạnh với hơn 1.000 thuyền chiến đem quân đi đánh Troy.

Achilles (A-Sin) là tướng quân vĩ đại của Mycenae nhưng anh lại không muốn tham gia cuộc tranh giành lãnh thổ này. Tuy nhiên, người em họ của anh là Patroclus lại mang giáp, mũ, giày, đeo khiên của anh rồi dẫn quân ra trận. Patroclus bị hoàng tử Hector (anh của Paris) cắt cổ, điều này khiến Achilles tức giận và một mình đến khiêu chiến Hector.

Sau một trận thư hùng, Hector bị giết chết. Sau đó quân Hy Lạp dùng chiến thuật ngựa gỗ (con ngựa thành Troy) để đánh chiếm thành Troy. Đáng tiếc trong trận chiến này, Achilles đã bị Paris giết chết bằng những mũi tên vào gót chân và ngực. Đây cũng chính là nguồn gốc của câu nói “gót chân A-sin”.

2. Cuộc chiến giữa các vị thần – Clash of the Titans (2010)

Phim hay về thần thoại Hy Lạp này đem về doanh thu 493 triệu USD và được làm tiếp phần 2 là Wrath of the Titans 2012.


*

Phim thần thoại Hy Lạp tiêu diệt Medusa


Nội dung phim: Phim thần thoại Hy Lạp tiêu diệt Medusa kể về á thần Perseus, là con của thần Zeus và Danaë, vợ của Acrisius. Zeus đem lòng yêu mến Danaë nên đã nhiều lần biến thành Acrisius để ngủ với vợ anh ta. Sau khi phát hiện sự việc, Acrisius đã cho vợ con vào hòm ném xuống biển. May mắn thay, Perseus được một ngư dân già cứu sống. Còn Acrisius bị Zeus cho sét đánh trở thành quái vật với hình thú gớm ghiếc.

Sau một trận bão do thần địa ngục Hades gây ra, Perseus được các anh hùng của vùng đất Argos cứu sống và gia nhập đội quân đi tiêu diệt thủy quái khổng lồ Kraken để giải cứu Argos và công chúa Andromeda.

Muốn tiêu diệt Kraken phải có đầu của Medusa để làm Kraken hóa đá. Trong các trận chiến này, Perseus đã giết chết Calibos (thật ra chính là Acrisius biến dạng thành). Anh lấy được đầu Medusa, khiến Kraken hóa đá. Hades bị Zeus đuổi xuống địa ngục và Argos trở lại bình yên.

3. Chiến binh bất tử – Immortals (2011)

*

Cách dàn dựng Immortals gợi khán giả nhớ tới bộ phim 300, từ tạo hình nhân vật đến bối cảnh làng mạc. Tuy nhiên, Immortals chinh phục người xem về mặt thị giác với nhiều trường đoạn đẫm máu, hồi hộp, gây sốc khiến khán giả giật mình. Nổi bật là trận chiến Thermopylae với không khí nghẹt thở, chết chóc. 20 phút bạo lực đẹp mắt cuối phim có thể khiến khán giả đồng loạt trầm trồ.

Nội dung phim: Sau khi những người khổng lồ Titan bị giam cầm dưới lòng núi địa ngục Tartarus, lãnh chúa Hyperion quyết tâm trở thành Chúa tể thế giới. Hắn truy lùng chiếc cung của Thần chiến tranh Ares để giải phóng các Titan và gây ra cuộc hỗn chiến khốc liệt nhất trong lịch sử nhân loại.

Ngoài những cảnh quay quá sức hoành tráng khiến khán giả phải căng mắt suốt bộ phim, Immortals còn tạo điểm nhấn bởi sự trẻ trung và lộng lẫy của các vị thần. Không già nua và khổng lồ như các phim trước, từ thần Zeus, Athena đến Poseidon đều trẻ trung, quyến rũ và bé nhỏ như con người.

4. Loạt phim Percy Jackson (2010-2013), phim hay về thần thoại Hy Lạp

Đây là 2 bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Rick Riordan. Phần 1 – Percy Jackson: The Lightning Thief ra rạp năm 2010 và gặt hái doanh thu 226 triệu USD, mở đường cho Phần 2 – Percy Jackson: Sea of Monsters ra rạp năm 2013.


*

Nội dung phim: Những bộ phim về quái vật thần thoại phải nói tới loạt phim Percy Jackson. Phim kể về cuộc phiêu lưu của chàng trai Percy Jackson trong thế giới thần thoại Olympus nhưng đã được hiện đại hóa với những tình tiết hài hước, trẻ trung. Đây sẽ là lần đầu tiên bạn nhìn thấy thần linh dùng smartphone hay Google.

Percy Jackson là con của thần biển Poseidon và một người phàm. Cậu được đưa đến trại Á thần, nơi Percy gặp gỡ những thanh niên Á thần cũng có xuất thân và năng lực đặc biệt giống như cậu.

Percy kết bạn với cô gái Annabeth (con của nữ thần Athena) và chàng trai nửa người nửa dê Grover trên hành trình tìm lại tia chớp bị đánh cắp của thần Zeus, đánh bại thủ phạm là Luke, con trai thần Hermes.

Ở phần 2, nhóm bạn cùng với người anh độc nhãn hậu đậu Tyson của Percy lại cùng nhau đi lấy bộ lông cừu vàng để cứu cây bảo vệ Thalia. Ác thần Luke cũng muốn đoạt chiếm bộ lông cừu vàng để đánh thức thần Kronos đang bị giam giữ dưới ngục sâu.

5. Phim thần thoại Hy Lạp Hercules (2014)

*

Phim hay về thần thoại Hy Lạp này nhận được rất nhiều lời khen ngợi về phần kịch bản, kỹ xảo và diễn xuất. Thân hình vững chãi như một quả núi của Dwayne Johnson biến anh thành lựa chọn không thể thích hợp hơn cho vai Hercules. Phim đạt doanh thu 245 triệu USD.

Để so sánh, trong cùng năm cũng có một bộ phim cùng đề tài là The legend of Hercules (Huyền thoại Hercules) do Kellan Lutz thủ diễn và chỉ đem về doanh thu lỗ vốn 61.3 triệu USD.

*

Nội dung phim: Phim chiến tranh Hy Lạp cổ đại này lấy bối cảnh sau khi Hercules đã bị mất vợ con, gia đình duy nhất còn lại với anh là 6 chiến binh trong đội quân đánh thuê cùng anh vào sinh ra tử. Nhận được lời cầu viện của vua Cotys, đội quân của Hercules quyết định đi tiêu diệt bạo chúa hung hãn Rhesus và xem như đây là phi vụ cuối cùng. Nhưng sau khi lập công và bắt được Rhesus, Hercules mới nhận ra anh đã bị lừa bịp, tất cả chỉ là mưu đồ mở rộng lãnh thổ của vua Cotys và anh cũng phát hiện chân tướng ai là kẻ chủ mưu hại chết gia đình mình.

Bộ phim được yêu thích vì nó không xoay quanh cuộc chiến của các vị thần, mà là cuộc chiến giữa người với người, giống như bộ phim Troy. Hercules không còn là vị á thần bách chiến bách thắng, anh cũng có thể bị thương và cần đến sự giúp sức của đồng đội.

6. Đế chế trỗi dậy – 300: Rise of an Empire (2014)

Bảy năm sau thành công của bộ phim 300, hãng Warner Bros tiếp tục thực hiện phần 2 với các trận thủy chiến căng thẳng, kịch tích và mãn nhãn hơn.

*

Nội dung phim: Sau khi tiêu diệt binh đoàn 300 người của vua Leonidas, vua Xerxes tiếp tục đưa đạo quân Ba Tư của mình đi chinh phạt khắp các thành phố Hy Lạp. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của dũng tướng Themistocles, quân đội thành Athens đã anh dũng bảo vệ lãnh thổ của mình, tạo ra 2 trận thủy chiến lịch sử Artemisium và Salamis.

Những màn đối đầu trong phần 2 này kích thích trí não với nhiều mưu mẹo và chiến thuật hơn hẳn phần 1. Tuy nhiên, cái hay của phim không nằm ở tuyến nhân vật chính diện mà lại nằm ở vai phản diện, nữ thần chiến tranh Artemisia do Eva Green thủ diễn.

Khát máu nhưng quyến rũ, Eva Green đã thể hiện được nội tâm phức tạp và mâu thuẫn của nhân vật. Mối tình tréo ngoe nóng bỏng giữa Artemisia và Themistocles cũng là một điểm nhấn thu hút của phim.

7. Phim hay về thần thoại Hy Lạp: Nữ thần chiến binh – Wonder Woman (2017)

*

Đây là bộ phim hay nhất của Vũ trụ điện ảnh DC mở rộng tính cho tới hiện nay, gặt hái doanh thu tới 822 triệu USD, đem về vô số đề cử và giải thưởng. Với chủ đề ca ngợi nữ quyền, Wonder Woman là bộ phim được nhắc tới nhiều nhất năm 2017, đem lại vinh quang cho nữ chính Gal Gadot.

*

Nội dung phim: Bộ phim lấy bối cảnh Thế chiến thứ I vào năm 1918, nội dung xoay quanh công chúa Diana xứ Themyscira, con của thần Zeus và nữ hoàng Hippolyta.

Năm xưa, thần chiến tranh Ares tìm cách tiêu diệt các vị thần khác và toàn bộ nhân loại, nhưng đã bị thần Zeus đánh bị thương. Thần Zeus để lại một thanh kiếm “diệt quỷ” cho người dân xứ Themyscira, phòng khi Ares quay lại.

Chàng phi công Steve Trevor là một điệp viên phe Đồng Minh được cài vào Đế quốc Đức. Máy bay của anh bị truy đuổi và rơi xuống vùng biển Themyscira. Sau khi được cứu sống, Steve kể cho Diana về cuộc chiến đang diễn ra bên ngoài hòn đảo nhỏ của cô. Tin rằng chiến tranh là do Ares gây ra, Diana đã mang theo cho mình bộ giáp và thanh kiếm “Diệt quỷ” để cùng Steve truy giết Ares, chấm dứt chiến tranh.

Những bộ phim thần thoại hay nhất mọi thời đại

1. Chúa tể những chiếc nhẫn – The Lord of the Rings (2001-2003)

*

Một trong những bộ phim thần thoại hay nhất mọi thời đại là Chúa tể những chiếc nhẫn. Loạt phim 3 tập của đạo diễn Peter Jackson được tiến hành quay cùng lúc trong 8 năm ở New Zealand. Chúa tể những chiếc nhẫn thực hiện dựa trên bộ truyện cùng tên của tác giả J. R. R. Tolkien.

Ba tập của phim bao gồm: Chúa tể những chiếc nhẫn: Hiệp hội nhẫn thần – Lord Of The Rings Fellowship Of Ring (2001), Chúa tể những chiếc nhẫn: Hai tòa tháp – The Lord of the Rings: The Fellowship of the Ring (2002) và Chúa tể những chiếc nhẫn: Sự trở lại của nhà vua – The Lord of the Rings: The Return of the King (2003).

Ở phần 1, anh chàng hobbit Bilbo Baggins trao lại chiếc nhẫn quý giá của mình cho cháu trai Frodo – người phát hiện ra nó giữ cho chúa tể Sauron độc ác còn sống và cần phải tiêu diệt nó (One Ring). Frodo và 8 người bạn bắt đầu hành trình đến núi Doom ở Mordor để tiêu diệt nhẫn. Chỉ nơi đây mới hủy diệt được chiếc nhẫn này. Phim có nhiều sinh vật thần thoại cổ điển, chẳng hạn như yêu tinh, rồng, người lùn, Orc và phù thủy.

Ở phần 2, hai người Hobbit Frodo và Sam tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đầy cam go của họ đến Mordor. Trên đường đi, họ gặp sinh vật nham hiểm Gollum. Yêu tinh Gollum luôn muốn đánh cắp chiếc nhẫn. Trong khi đó, Aragorn, Legolas và Gimli đến vương quốc Rohan đang có nội chiến. Tại đây họ gặp Gandalf đã được hồi sinh. Còn Merry và Pippin trốn thoát được bọn Uruk-hai. Cả hai gặp người cây Treebeard và chuẩn bị cho kế hoạch tấn công Isengard.

Tác giả J.R.R. Tolkein đã dựa trên nhiều câu chuyện thần thoại từ khắp châu Âu để tạo ra truyền thuyết về Trung Địa. Bộ phim được đề cử cho 6 giải Oscar, bao gồm cả Phim hay nhất.

Phần cuối cùng, Frodo và người bạn đồng hành Samwise Gamgee cuối cùng đã tiến vào Mordor và hủy diệt chiếc nhẫn. Trong khi đó, những người bạn của họ chiến đấu với lực lượng của Mordor tại thủ đô Gondor của thành Minas Tirith. Phần này dựa trên truyền thuyết thời trung cổ về một vị vua trở về vương quốc của mình. Phim giành được giải Oscar cho Phim hay nhất.

2. Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban – Harry Potter and The Prisoner of Azkaban (2004)

*

Ở phần phim thứ ba của loạt phim giả tưởng này, Harry Potter đang học năm thứ ba tại Trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts. Trong tập này, Harry có một mối đe dọa mới: Một trong những đệ tử tận tụy nhất của chúa tể Voldemort trốn thoát khỏi nhà tù Azkaban và tìm cách trả thù cậu.

Mặc dù loạt phim Harry Potter có nhiều sinh vật thần thoại, song tập phim này có một sinh vật thần thoại nổi bật được gọi là “Hippogriff” tên Buckbeak. Buckbeak được nhà thơ người Ý Ludovico Ariosto tạo ra vào những năm 1500. Phim được đề cử cho hai giải Oscar: Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất và Nhạc phim xuất sắc nhất.

3. Thế thân – Avatar (2009)

*

Những bộ phim thần thoại viễn tưởng hay nhất phải nhắc tới Avatar.

Nội dung phim kể về Jake Sully (Sam Worthington), một người lính thủy đánh bộ bắt đầu thực hiện sứ mệnh đến hành tinh Pandora. Ở đây, Jake sẽ kết nối thần kinh với thế thân của mình để xâm nhập và tìm hiểu về người Na’vi rồi báo cáo cho cấp trên.

Mục tiêu của các lãnh đạo là xâm chiếm hành tinh này. Khi biết chuyện, Jake và vài đồng nghiệp đã bỏ trốn đến với người Na’vi.

Người Na’vi ở Pandora thờ một nữ thần tên là Eywa, được so sánh với các vị thần ngoài đời thực khác, chẳng hạn như Gaia – mẹ trái đất; Jörð trong thần thoại Bắc Âu và Papatuanuku – nữ thần đất Maori.

4. Những bộ phim thần thoại viễn tưởng hay nhất: Coco (2017)

*

Cậu bé Miguel có ước mơ trở thành một nhạc sĩ như thần tượng của mình Ernesto de la Cruz. Song gia đình cậu bé có lệnh cấm âm nhạc từ nhiều thế hệ. Rồi trong ngày lễ Mexico Día de Muertos, Miguel đã lạc vào Vùng đất của người chết để chứng minh tài năng của mình và khám phá sự thật về lịch sử của gia đình mình.

Lấy cảm hứng từ truyền thuyết và truyền thống của ngày lễ Mexico Día de Muertos, Ngày của Người chết, bộ phim hoạt hình Coco cũng sử dụng thần thoại Aztec trong việc mô tả Xoloitzcuintli – động vật đóng vai trò dẫn đường cho mọi người đến thế giới bên kia. Người Aztec cho là những sinh vật thiêng liêng có mối quan hệ giữa sự sống và cái chết. Phim đã giành được hai giải Oscar: Phim hoạt hình hay nhất và Bài hát gốc hay nhất.

Xem thêm: Những câu chuyện cảm động rất ngắn khiến người đọc rơi lệ, kể về một câu chuyện cảm động lớp 8

Nếu đam mê đọc truyện cổ Hy Lạp cũng như muốn xem những bộ phim thần thoại hay nhất mọi thời đại, bạn đừng nên bỏ qua 11 bộ phim hay về thần thoại Hy Lạp này nhé. Sức sáng tạo và công nghệ làm phim hiện đại sẽ giúp bạn thỏa mãn không chỉ phần nghe nhìn, mà còn để lại nhiều bài học đắt giá.